Ngày thứ hai sau đó, Robert đến làm việc ngày đầu tiên tại Phòng 17 Cục Tình báo hải quân tại Lầu Năm Góc. Đô đốc Whittaker nồng nhiệt:
– Chúc mừng đã trở về, Robert. Rõ ràng là anh đã rất gây ấn tượng với đại tá Johnson.
– Chính ông ta cũng rất gây ấn tượng. – Robert mỉm cười.
Ngồi uống cà phê, vị đô đốc hỏi:
– Anh đã sẵn sàng làm việc chưa hả?
– Rất sẵn sàng.
– Tốt. Chúng ta có một vụ việc ở Rhodesia…
Làm việc ở Cục Tình báo hải quân thậm chí còn hấp dẫn hơn cả những gì Robert đã chờ đón. Mỗi nhiệm vụ một khác, và Robert được giao những việc được phân loại là tối nhạy cảm. Anh mang về một người đào nhiệm cho biết hoạt động buôn lậu ma tuý của Noriega ở Panama, phát hiện một điệp viên làm việc cho Marcos trong toà lãnh sự quán Mỹ ở Manila, và giúp dựng lên một trạm nghe lén ở Morocco. Anh được cử đi công tác tới Nam Phi và vùng Đông Âu. Điều duy nhất làm anh phiền muộn là việc phải xa Susan lâu. Anh không muốn phải xa cô và anh thường nhớ cô một cách khủng khiếp. Anh có sự hứng thú trong công việc của mình nhưng Susan thì không có gì cả.
Công việc nghiệp vụ của Robert cứ ngày càng tăng lên. Anh ngày càng ít khi có mặt ở nhà, và đó chính là thời gian mà vấn đề đối với Susan trở nên nghiêm trọng.
Mỗi khi Robert về đến nhà, anh và Susan thường lao vào vòng tay của nhau một cách đầy thèm khát và rồi làm tình đầy cuồng nhiệt.
Nhưng những lúc như thế mỗi ngày mỗi thưa ra. Với Susan dường như ngay sau khi Robert trở về thì anh lại lập tức bị phái đi với một nhiệm vụ mới.
Chuyện càng xấu thêm khi Robert không thể nào bàn công việc của anh với cô. Susan không hề biết anh đi đâu, làm gì. Cô chỉ biết rằng anh liên quan với những công việc nguy hiểm và cô lo sợ rằng một ngày nào đó anh sẽ không bao giờ trở về nữa. Cô không dám hỏi anh.
Cô cảm thấy mình như một người lạ, hoàn toàn bị tách khỏi một phần quan trọng trong đời sống của anh. Đời sống của họ. Mình không thể tiếp tục như thế nầy được. Susan quyết định.
Khi Robert trở về sau bốn tuần đi công tác ở Trung Mỹ, Susan nói:
– Robert, em nghĩ chúng ta nên nói chuyện với nhau.
– Có chuyện gì vậy? – Robert hỏi. Anh đã biết là có chuyện gì.
– Em sợ. Chúng mình đang mất nhau, và em không muốn thế. Em không thể chịu được.
– Susan.
– Khoan đã. Để em nói nốt. Anh có biết trong bốn tháng qua chúng mình được ở bên nhau bao lâu không? Chưa đầy hai tuần. Mỗi khi anh trở về, em cảm thấy dường như anh là một người khách chứ không phải là chồng em.
Anh ôm chặt Susan vào trong lòng.
– Em biết là anh yêu em đến thế nào mà.
– Xin đừng để chuyện gì xảy ra cho chúng mình. – Cô tựa đầu vào anh.
– Anh sẽ không để như thế, – anh hứa. – Anh sẽ nói chuyện với Đô đốc Whittaker.
– Bao giờ nào?
– Ngay lập tức.
– Đô đốc sẽ gặp ông bây giờ, thưa ông chỉ huy.
– Cảm ơn.
Đô đốc Whittaker đang ngồi sau bàn làm việc, ký giấy tờ. Khi Robert bước vào, ông ngẩng lên và mỉm cười.
– Chúc mừng đã trở về và xin có lời khen ngợi. Công việc của anh làm ở El Salvador thật là tuyệt vời.
– Cảm ơn ngài.
– Mời ngồi. Tôi có thể mời anh chút cà phê chứ?
– Không, xin cảm ơn Đô đốc.
– Anh muốn nói chuyện với tôi hả? Thư ký của tôi nói là có việc khẩn cấp. Tôi có thể làm gì cho anh nào?
Thật là khó mở đầu.
– Ồ thưa ngài, đây là chuyện cá nhân thôi. Tôi đã cưới vợ chưa đầy hai năm và…
– Anh có một sự lựa chọn tuyệt vời đấy, Robert. Susan là một phụ nữ đáng yêu.
– Vâng, tôi đồng ý như vậy. Vấn đề là ở chỗ tôi đi xa hầu hết thời gian, và cô ấy bất hạnh về chuyện đó – Anh vội nói thêm. – Và cô ấy hoàn toàn có quyền như vậy. Đó không phải là chuyện bình thường.
Đô đốc Whittaker dựa người trên lưng ghế và trầm ngâm nói:
– Tất nhiên là anh không được làm việc trong điều kiện bình thường. Đôi lúc phải có những hy sinh.
– Tôi biết, – Robert bướng bỉnh đáp, – nhưng tôi sẽ không hy sinh cuộc sống vợ chồng của tôi. Điều đó là quá sức đối với tôi.
– Tôi hiểu. Thế anh yêu cầu gì nào? – Vị Đô đốc nhìn anh dò xét.
– Tôi hy vọng là ngài có thể tìm cho tôi một vài công việc mà tôi không phải xa nhà nhiều như vậy. Hẳn phải có cả trăm công việc cho tôi ở quanh đây.
– Nghĩa là gần nhà hơn.
– Vâng.
Vị đô đốc chậm rãi nói:
– Chắc chắn là anh sẽ toại nguyện. Tôi không cho là không thể dàn xếp được một chuyện như vậy.
Robert mỉm cười nhẹ nhõm.
– Ngài thật tốt bụng, thưa Đô đốc. Tôi rất biết ơn về điều đó
– Phải, tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta có thể thu xếp chuyện đó. Hãy nói hộ tôi với Susan là vấn đề đã được giải quyết.
– Tôi không còn biết cảm ơn ngài như thế nào cho phải. – Robert đứng dậy, rạng rỡ.
Đô đốc Whittaker vẫy tay ngỏ ý cho anh đi ra.
– Tôi không thể để chuyện gì xảy ra đối với một nhân viên quý báu như anh được. Còn bây giờ thì hãy về nhà với người vợ trẻ của anh đi.
Khi Robert nói lại với Susan, cô sướng run lên. Cô choàng tay ôm lấy anh.
– Ôi anh yêu. Thật là tuyệt diệu.
– Anh sẽ xin ông ta nghỉ vài tuần để chúng ta có thể có một chuyến đi đâu đó. Nó sẽ là tuần trăng mật thứ hai của chúng ta.
– Em đã quên mất thế nào là một tuần trăng mật rồi, – Susan thì thầm. – Hãy cho em thấy đi!
Robert đã cho cô thoả lòng.
Sáng hôm sau, Đô đốc Whittaker cho gọi Robert.
– Tôi muốn anh biết rằng tôi đang thu xếp vấn đề mà chúng ta bàn ngày hôm qua.
– Cảm ơn Đô đốc. – Bây giờ là lúc nói đến chuyện xin nghỉ phép đây. – Thưa ngài…
Đô đốc Whittaker nói:
– Robert, có chuyện thế nầy. – Vị Đô đốc bắt đầu đi đi lại lại Khi ông cất lời, giọng ông ta đầy vẻ lo lắng sâu sắc. – Tôi vừa được thông báo rằng CIA đã bị đối phương cấy người vào. Dường như có một sự tiết lộ đều đặn các thông tin tối mật. Tất cả những gì họ biết về điệp viên nầy chỉ là cái mật danh Con Cáo của anh ta. Hiện nay anh ta đang ở Argentina. Họ cần một người bên ngoài CIA lo cho vụ nầy. Giám đốc CIA đã yêu cầu anh. Họ muốn anh tìm ra điệp viên kia và mang anh ta về đây. Tôi đã bảo với họ là quyết định nầy tuỳ thuộc ở anh. Anh có muốn nhận nó hay không?
– Tôi e rằng phải bỏ qua nó thôi, thưa Đô đốc. – Robert lưỡng lự.
– Robert, tôi tôn trọng quyết định của anh. Anh đã phải đi liên tục và chưa bao giờ từ chối một nhiệm vụ nào. Tôi biết là điều đó không dễ dàng gì đối với đời sống vợ chồng của anh.
– Thưa ngài, tôi muốn nhận nhiệm vụ nầy. Chỉ có điều – Anh không cần phải nói đâu, Robert. Ý kiến của tôi về công việc và sự cống hiến của anh vẫn giữ nguyên.
– Tôi chỉ mong ở anh có một điều thôi.
– Điều gì vậy thưa Đô đốc?
– Ông phó giám đốc CIA yêu cầu được gặp anh, bất luận quyết định của anh là thế nào. Vì phép lịch sự. Anh không phiền lòng chứ?
– Tất nhiên là không, thưa ngài.
Ngày hôm sau, Robert lái xe đến Langley để gặp viên phó giám đốc CIA.
– Xin mời ngồi, ông sĩ quan, – Viên phó giám đốc nói khi Robert bước vào phòng đầu căn nhà rộng lớn. – Tôi đã nghe nhiều về ông. Tất nhiên là toàn những lời tốt đẹp cả.
– Cảm ơn ngài.
Đó là một người đàn ông đã sang tuổi sáu mươi, dáng người mảnh khảnh với mái tóc bạc trắng và một bộ ria mép nhỏ cứ động đậy mỗi khi ông ta hút píp thuốc. Tốt nghiệp Đại học Yale, ông ta ra nhập Cục phục vụ chiến lược (OSS) trong chiến tranh thế giới thứ hai và rồi vào CIA khi cơ quan nầy được thành lập sau chiến tranh và dần dần lên tới chức vụ hiện nay của một trong những cơ quan tình báo lớn nhất và hùng mạnh nhất thế giới.
Ông sĩ quan, tôi muốn ông biết rằng tôi tôn trọng quyết định của ông.
Bellamy gật đầu.
– Tuy nhiên, có một việc mà tôi cảm thấy cần phải lưu ý với ông.
– Chuyện gì vậy, thưa ngài?
– Tổng thống đích thân tham gia vào chiến dịch lột mặt nạ của Con Cáo.
– Thưa ngài, tôi đã không biết điều đó.
– Ông coi nó, cũng như tôi nữa, là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của cơ quan nầy kể từ khi ra đời đến nay. Tôi có biết về chuyện của gia đình ông, và tôi chắc rằng Tổng thống cũng thông cảm. Ông thực sự là một người đàn ông có khuynh hướng gia đình. Nhưng việc ông không nhận nhiệm vụ nầy có thể, tôi phải nói thế nào nhỉ, làm xấu mặt Cục Tình báo Hải quân và Đô đốc Whittaker.
– Đô đốc không có liên quan gì tới quyết định của tôi thưa ngài, – Robert nói.
– Tôi hiểu điều đó, ông sĩ quan, thế nhưng Tổng thống có hiểu như vậy hay không?
Tuần trăng mật sẽ phải bị hoãn lại mất, Robert nghĩ.
Khi Robert báo tin với Susan, anh nhẹ nhàng nói:
– Đây sẽ là chuyến đi công tác ra nước ngoài cuối cùng của anh. Sau chuyến nầy, anh sẽ ở nhà nhiều đến mức em phát chán lên cho mà xem.
Cô mỉm cười với anh.
– Trên đời nầy làm gì có nhiều thời gian đến thế.
– Chúng mình sẽ ở bên nhau mãi mãi.
Cuộc săn đuổi Con Cáo là một trong những công việc tuyệt vọng nhất mà Robert từng gặp. Anh đã tìm được dấu vết của hắn ở Argentina nhưng chậm so với con mồi một ngày. Những dấu vết dẫn tới Tokyo và Trung Quốc, rồi Malaisia. Dù Con Cáo là ai không biết, hắn để lại một chút dấu vết đủ để dẫn đến nơi hắn đã có mặt nhưng không bao giờ đến được nói hắn đang có mặt.
Hết ngày rồi đến tuần, hết tuần rồi đến tháng, và Robert luôn ở phía sau Con Cáo. Hầu như ngày nào anh cũng gọi điện cho Susan. Thoạt đầu thì là: “Anh sẽ trở về nhà sau vài ngày thôi, em yêu”. Và rồi, “Anh có thể về nhà vào tuần tới”. Và sau cùng “Anh không rõ là khi nào thì sẽ về được”. Cuối cùng, Robert đã phải bỏ cuộc. Anh đã bám theo dấu vết Con Cáo suốt hai tháng rưỡi mà không có kết quả gì.
Khi anh trở về với Susan, cô có vẻ thay đổi. Hơi lạnh nhạt một chút.
– Anh xin lỗi, em yêu, – Robert xin lỗi. – Anh không hề biết là phải mất nhiều thời gian như thế. Chỉ là…
– Họ sẽ không bao giờ buông tha anh, có phải không, Robert?
– Gì cơ? Tất nhiên là họ sẽ phải buông anh ra.
– Em không nghĩ như thế. Em đã nhận việc làm ở bệnh viện Memorial ở Washington. – Cô lắc đầu.
– Em nói gì? – Anh giật mình.
– Em sẽ lại là một y tá. Em không thể cứ ngồi chờ anh trở về nhà với em, phiền muộn về việc anh đang ở đâu và anh đang làm gì, phiền muộn không hiểu anh đã chết hay còn sống nữa.
– Susan, anh…
– Cũng được thôi mà, anh yêu của em. It nhất thì em cũng sẽ làm được việc gì đó có ích trong những lúc anh đi vắng. Điều đó sẽ làm cho sự chờ đợi trở nên nhẹ nhàng hơn.
Và Robert không còn biết trả lời thế nào. Anh báo cáo lại thất bại của mình với Đô đốc Whittaker. Vị Đô đốc tỏ ra thông cảm.
– Tôi đã có lỗi trong việc đồng ý để anh làm nhiệm vụ đó Từ nay trở đi, chúng ta sẽ để cho CIA tự giải quyết những vấn đề khốn kiếp của họ. Robert, tôi xin lỗi.
Robert nói với ông về việc Susan nhận làm y tá.
– Có thể đó là một ý kiến hay đấy, – Vị Đô đốc trầm ngâm nói. – Nó sẽ làm cho cuộc sống vợ chồng của anh bớt căng thẳng. Thỉnh thoảng, nếu như ảnh có những công tác ở hải ngoại, tôi chắc cũng đỡ rắc rối.
Cái gọi là thỉnh thoảng kia hoá ra gần như liên tục. Đó chính là lúc cuộc hôn nhân thật sự bắt đầu tan rã.
Susan làm việc tại bệnh viện Memorial trên cương vị một y tá giúp việc ở phòng mổ, và khi Robert có nhà, cô thường cố gắng xin nghỉ để ở bên anh, nhưng càng ngày cô càng bận rộn hơn với công việc.
– Em thật sự cảm thấy thích thú, anh yêu ạ. Em cảm thấy em đang làm được một công việc có ích.
Cô thường nói chuyện với Robert về các bệnh nhân của cô, và anh nhớ cô đã từng chăm sóc anh như thế nào, cô đã giúp anh trở nên khoẻ mạnh và trở lại với cuộc sống ra sao. Anh đã hài lòng thấy rằng cô đang làm một công việc tốt mà cô cảm thấy yêu thích, song có một thực tế là họ ngày càng gặp nhau ít hơn. Khoảng cách về tình cảm giữa họ ngày càng rộng ra. Có một sự ngượng ngập mà trước đây chưa bao giờ có. Họ như hai người xa lạ, cố gắng một cách tuyệt vọng để bắt chuyện với nhau.
Khi Robert trở lại Washington sau sáu tuần công công tác tại Thổ Nhĩ Kỳ, anh đưa Susan đi ăn tối ở Sans Souci.
Sulsan nói:
– Ở bệnh viện chỗ em mới có một bệnh nhân. Anh ta bị một tai nạn máy bay khủng khiếp và các bác sĩ nghĩ rằng anh ta khó có thể sống nổi, thế nhưng em sẽ chăm sóc để anh ta có thể qua được. – Đôi mắt cô bừng sáng.
Vớí mình, cô ấy cũng như vậy. Robert nghĩ. Anh băn khoăn không biết liệu cô cũng cúi xuống bên người bệnh mới nầy và nói: “Hãy mau khoẻ. Em đang đợi anh” hay không. Anh cố dứt bỏ ý nghĩ đó.
– Robert, anh ta tuyệt lắm. Tất cả các y tá đều phát điên lên vì anh ta.
– Tất cả ư? Anh ngẫm nghĩ.
Trong lòng anh nhen nhóm một chút nghi ngờ, dằn vặt nhưng anh đã dẹp được ý nghĩ đó đi.
Họ gọi bữa ăn.
Ngày thứ bẩy tiếp đó, Robert đi Bồ Đào Nha và ba tuần lễ sau, khi anh trở về, Susan mừng rỡ chào đón anh.
– Ngày hôm nay, lần đầu tiên Monte đã đi lại được. – Nụ hôn của cô đầy vẻ qua quýt.
– Monte?
– Monte Banks. Đó là tên anh ta. Anh ta sẽ đâu vào đấy. Các bác sĩ đã không thể tin nổi, nhưng mà tụi em sẽ không chịu đâu.
– Tụi em.
– Kể cho anh nghe về anh ta xem nào.
– Anh ta thật sự đáng mến. Anh ta luôn luôn cho mấy đứa bọn em quà. Anh ta rất giàu có. Anh ta lái một chiếc máy bay riêng và anh ta đã bị một tai nạn khủng khiếp, và…
– Những quà gì hả?
– Ồ, anh biết đấy, chỉ những thứ lặt vặt ấy mà – kẹo, hoa, sách và đĩa hát. Anh ta muốn tặng những chiếc đồng hồ đắt tiền cho tất cả bọn em nhưng tất nhiên là bọn em phải từ chối rồi.
– Thì tất nhiên.
– Anh ta có một chiếc du thuyền, những con ngựa…
Đó là khi mà Robert bắt đầu gọi anh ta là Cái túi tiền (moneybags).
Lần nào từ bệnh viện trở về nhà, Susan cũng nói chuyện về anh ta.
– Robert, anh ta thật sự chân thành.
Chân thành là nguy hiểm đây.
– Và anh ta rất quan tâm đến người khác. Anh có biết hôm nay anh ta đã làm gì không? Đã yêu cầu tiệm Jockey gửi bữa trưa tới cho tất cả những y tá có mặt đấy.
Thằng cha nầy kinh tởm thật. Thật lố bịch, Robert cảm thấy mình trở nên cáu kỉnh.
– Cái thằng cha bệnh nhân tuyệt vời đó của em đã có vợ chưa hả?
– Chưa, anh yêu. Nhưng sao cơ?
– Anh chợt nghĩ vậy thôi.
– Hãy vì Chúa, anh không ghen đấy chứ? – Cô cười vang.
– Với cái thằng cha già cỗi mới học đi ấy ư? Tất nhiên là không.
Mẹ kiếp, dứt khoát là thế. Nhưng anh không hề muốn làm phiền lòng cô.
Khi Robert ở nhà, Susan cố không nhắc tới bệnh nhân của cô, nhưng nếu cô không thì Robert lại gợi chuyện.
– Cái túi tiền thế nào rồi?
– Tên anh ta không phải là Cái túi tiền, – Cô nói vẻ trách móc, mà là Monte Banks.
– Gì chả được.
Thật tiếc là cái thằng chó đẻ đó không chết trong vụ tai nạn kia cho rảnh chuyện.
Hôm sau là ngày sinh nhật của Susan.
– Nầy, anh bảo nhé, – Robert sốt sắng nói, – Chúng ta sẽ làm lễ kỷ niệm. Chúng ta sẽ đi và có một bữa tối tuyệt vời ở đâu đó và…
– Em phải làm việc ở bệnh viện cho tới 8 giờ cơ.
– Cũng được. Anh sẽ tới đón em ở đó.
– Được đấy Monte muốn gặp anh lắm. Em đã nói về anh rất nhiều cho anh ta nghe.
– Anh cũng muốn gặp thằng cha đó, – Robert quả quyết với cô.
Khi Robert tới bệnh viện, người thường trực nói:
– Xin chào ông sĩ quan. Susan đang làm việc trên khoang chỉnh hình ở tầng ba. Cô ấy đang đợi ông đấy. – Chị ta nhấc điện thoại lên.
Lúc Robert bước ra khỏi thang máy, Susan đang đứng chờ anh trong bộ đồng phục trắng bong, và tim anh đập rộn lên. Ôi, nàng sao mà đẹp thế.
– Xin chào người đẹp.
Susan mỉm cười, nhưng cảm thấy không thoải mái một cách hơi lạ.
– Chào anh, Robert. Vài phút nữa là em hết phiên trực. Nào đi. Em sẽ giới thiệu anh với Monte.
– Tôi đang sốt ruột đây.
Cô dẫn anh vào một phòng riêng rộng rãi, đầy những sách và hoa quả, và nói:
– Monte, đây là chồng… em, anh Robert.
Robert đứng đó, nhìn người đàn ông nằm trên giường. Anh ta lớn hơn anh chừng ba, bốn tuổi và rất giống Paul Newman. Thoáng nhìn, Robert đã thấy coi thường anh ta.
– Tôi rất vui lòng được gặp ông, ông sĩ quan. Susan đã kể tất cả về ông cho tôi nghe.
Phải chăng đó là thứ chuyện họ nói với nhau vào lúc nửa đêm khi cô ấy ở bên giường anh ta?
– Cô ấy rất tự hào về ông. – Cái túi tiền nói thêm.
Thế đấy anh bạn, lại còn ném ra vài mẩu bánh nữa.
Susan nhìn Robert, lòng những mong anh xử sự cho lịch thiệp. Anh phải cố gắng lắm.
– Tôi hiểu là ông sắp rời khỏi nơi đây.
– Vâng, chủ yếu là nhờ có người vợ của ông. Cô ấy là một người y tá kỳ diệu.
Nào, chàng thuỷ thủ. Anh nghĩ là em sẽ để cho một gã nào đó được có tấm thân tuyệt vời nầy ư?
– Vâng, đó chính là đặc tính của cô ấy. – Robert không thể nào giấu nổi vẻ cay đắng trong giọng nói của mình.
Bữa tiệc sinh nhật là cả một sự tuyệt vọng. Susan chỉ những muốn nói chuyện về người bệnh nhân của cô.
– Anh ta có làm cho anh nhớ tới ai không, anh yêu?
– Đến Boris Karloff.
– Sao anh cứ phải thô lỗ với anh ta thế nhỉ?
– Anh nghĩ là anh xử sự lịch thiệp. Có đíều anh không thích hắn ta. – Anh lạnh lùng nói.
– Thậm chí anh chưa hề quen biết gì. Anh ta có gì để anh không thích nào? – Susan nhìn anh chằm chằm.
– Anh không thích cái lối hắn ta nhìn em. Anh không thích cái lối em nhìn hắn ta. Anh không thích thấy cuộc sống vợ chồng cửa chúng ta đang tiêu tan như thế nầy. Lạy Chúa, anh không muốn mất em.
– Xin lỗi. Anh cho là anh hơi mệt.
Họ im lặng suốt bữa ăn.
Sáng hôm sau, khi Robert chuẩn bị tới sở, Susan nói:
– Anh Robert, em có chuyện muốn nói với anh…
Và anh cảm thấy như bị một cú đánh vào bụng.
Anh không thể nào chịu được việc cô sắp nói thành lời những gì đang xảy ra.
– Susan…
– Anh biết là em yêu anh. Em sẽ luôn yêu anh. Anh là người đàn ông đáng yêu nhất, tuyệt vời nhất mà em từng biết.
– Thôi nào…
– Không, để em nói nốt. Em thật khó nói ra chuyện nầy. Trong năm qua, chúng ta khơng mấy khi được sống bên nhau: Chúng ta không còn một cuộc sống vợ chồng nữa. Chúng ta đã xa cách nhau.
Mỗi lời nói của cô như một phát dao đâm vào thân thể anh.
– Em nói đúng, – anh nói với một vẻ tuyệt vọng. – Anh sẽ thay đổi. Anh sẽ thôi việc ở cơ quan. Ngay bây giờ. Hôm nay. Chúng mình sẽ đi đâu đó và…
Cô lắc đầu:
– Không, anh Robert. Cả hai chúng ta đều biết là như thế không được. Anh đang làm công việc mà anh muốn làm. Nếu vì em mà anh bỏ việc, anh sẽ luôn luôn dằn vặt về chuyện đó. Đây không phải là chuyện là lỗi của ai. Có điều – Chuyện là thế. Em muốn ly dị.
Tất cả dường như tối sầm trước mắt anh. Đột nhiên, anh cảm thấy bụng quặn lên.
– Đừng nghĩ như thế, Susan. Chúng ta sẽ tìm cách để…
– Quá muộn rồi. Em đã nghĩ về chuyện nầy từ lâu lắm rồi. Suốt cả thời gian anh đi xa và em ở nhà mong ngóng anh, em đã nghĩ về điều nầy. Chúng ta đã đang sống những cuộc đời riêng rẽ. Em cần hơn thế kia. Em cần cái mà anh không thể cho em được nữa.
Anh đứng lặng, cố kiềm chế tình cảm của mình.
– Chuyện nầy – Chuyện nầy có liên quan gì tới thằng cha Cái túi tiền không hả?
– Monte đã ngỏ lời cầu hôn với em. – Susan lưỡng lự.
– Và em sẽ bằng lòng ư? – Anh cảm thấy tim mình thắt lại.
– Vâng.
Đó là cơn ác mộng điên rồ. Không phải chuyện nầy đang xảy ra, anh nghĩ. Không thể như thế được. Nước mắt anh ứa ra.
Susan choàng tay, ôm chặt lấy anh.
– Em sẽ không bao giờ cảm thấy yêu một ngứời đàn ông như em đã cảm thấy yêu anh được. Em yêu anh bằng cả tâm hồn và trái tim mình. Em sẽ luôn luôn yêu anh. Anh là người bạn yêu quý nhất của em. – Cô lùi ra và nhìn vào mắt anh. – Song như thế chưa đủ. Anh có hiểu thế không?
Tất cả những gì anh hiểu là cô đang vò xé anh.
– Chúng ta có thể cố gắng. Chúng ta sẽ làm lại và…
– Anh Robert, em xin lỗi. – Giọng cô nghẹn lại. – Em thật xin lỗi, nhưng mọi chuyện đđ hết rồi.
Susan bay đi Reno để làm thủ tục ly dị, và chàng sĩ quan Robert Bellamy say rượu suốt hai tuần lễ liền.
Nhưng thói quen cũ thật khó mất. Robert gọi điện cho một người bạn ở Cục Điều tra Liên bang (FBI).
Trước đây, Al Traynor đã nhiều dịp có quan hệ với Robert và anh tin cậy anh ta.
– Tray, tôi cần cậu giúp đờ.
– Giúp đỡ? Cậu cần một bác sĩ thần kinh thì có. Quái quỷ thế nào mà cậu lại để mất Susan thế hả?
Chuyện của họ có thể đã lan đi khắp cả thành phố. Đó là cả một câu chuyện dài và buồn.
– Robert, tôi thật sự lấy làm tiếc. Cô ấy là một phụ nữ tuyệt vời. Tôi… mà thôi. Tôi có thể giúp gì cậu?
– Tôi muốn cậu kiểm tra về một người trên máy tính điện tử.
– Được rồi. Cậu cho tôi cái tên.
– Monte Banks. Chỉ là chuyện thẩm tra thông thường thôi.
– Rồi. Cậu muốn biết những gì?
– Có thể là hắn ta không có trong hồ sơ của cậu. Tray ạ, nhưng nếu có… hắn ta có bao giờ bị phạt vì chuyện đậu xe, đánh chó, vượt đèn đỏ chẳng hạn? Chuyện thông thường ấy mà.
– Chắc chắn là thế rồi.
– Tôi muốn biết hắn kiếm tiền ở đâu ra. Tôi muốn biết về tiểu sử của hắn.
– Vậy hả, chỉ chuyện thông thường, phải vậy không?
– Và nầy, Tray, chỉ giữ chuyện nầy riêng giữa chúng ta thôi nhé. Đó là chuyện riêng mà. Được chứ?
– Không có gì cả. Tôi sẽ gọi cho cậu vào sáng mai.
– Cảm ơn. Tôi nợ cậu một bữa trưa đấy.
– Bữa tối.
– Cũng được.
Robert gác máy và nghĩ: Hình ảnh một người đang vớ những cọng rơm. Mình hy vọng vào chuyện gì nhỉ, rằng hắn ta và tên Jack kẻ cướp và Susan lại lao trở vào vòng tay mình chăng?
Sáng sớm ngày hôm sau, Dustin Thornton cho gọi Robert.
– Ông đang làm gì vậy, ông sĩ quan?
Ông ta thừa biết mình đang làm gì mà, Robert nghĩ. – Tôi đang giải quyết hồ sơ của tôi về nhà ngoại giao Singapore, và…
– Việc đó có vẻ như nhưng không chiếm bao nhiêu thời gian của ông.
– Ông nói gì ạ?
– Ông sĩ quan, trong trường hợp ông quên, tôi xin nhắc là Cục Tình báo hải quân không được phép điều tra về các công dân Mỹ.
Robert nhìn ông ta, kinh ngạc.
– Ông…
– Tôi mới được bên FBI thông báo rằng ông đang tìm cách thu thập những thông tin hoàn toàn không thuộc thấm quyền của Cục nầy.
Robert cảm thấy một cơn giận chợt bùng lên. Thằng chó đẻ Traynor kia đã phản bội anh. Không eòn gì là bạn bè nữa.
– Đó là một chuyện cá nhân, – Robert nói. – Tôi…
– Các máy tính của FBI không phải là để phục vụ cho những sở thích của ông, cũng không phải là để giúp ông xía vào đời tư của các công dân. Ông đã rõ chưa?
– Rõ.
– Thế thôi.
Robert chạy lao về phía phòng của anh. Những ngón tay anh run rẩy khi quay số 202- 324- 3000. Một giọng trả lời:
– FBI đây.
– Cho tôi gặp Al Traynor.
– Xin chờ một chút.
Một phút sau, có tiếng một người đàn ông.
– Xin chào. Tôi có thể giúp gì ông vậy?
– Vâng. Tôi muốn gặp Al Traynor.
– Tôi xin lỗi. Điệp viên Traynor không còn ở cơ quan nầy.
– Cái gì? – Robert cảm thấy giật mình.
– Điệp viên Traynor đã bị thuyên chuyển.
– Thuyên chuyển à?
– Phải.
– Đến đâu?
– Boiso. Nhưng anh ta sẽ còn chưa có mặt tại đó một thời gian. Tôi e là một thời gian dài đấy.
– Ý ông nói gì vậy?
– Đêm qua, trong khi đang chạy trong công viên Rock Creek, anh ta bị một chiếc xe đâm rồi bỏ chạy. Ông có thể tin được không hả? Một thằng khốn kiếp nào đó hẳn đã uống say đến phát rồ. Hắn lao xe của hắn trên đường chạy. Traynor bị quăng đi xa tới hơn chục mét. Anh ta khó mà qua khỏi được.
Robert gác máy. Đầu óc anh quay cuồng. Chuyện quỷ quái gì đang xảy ra thế nhỉ? Monte Banks, cái thằng giàu có, mắt xanh ấy đang được bảo vệ. Bảo vệ cái gì? Ai bảo vệ hắn? Lạy Chúa, Robert nghĩ, Susan đang lao vào chuyện gì không biết nữa?
Anh đến thăm cô ngay chiều hôm đó.
Cô ở tại căn hộ mới của mình, một căn hộ kép đẹp đẽ trên phố M. Anh tự hỏi không biết có phải Cái túi tiền đã mua cho cô hay không. Đã mấy tuần họ không gặp nhau, và anh như nghẹt thở khi nhìn thấy cô.
– Susan, xin lỗi vì đã đường đột như thế nầy. Anh biết là anh đã hứa không làm vậy.
– Anh nói là có chuyện gì đó nghiêm trọng.
Đúng thế. Bây giờ, khi đã ở đây, anh không biết phải bắt đầu như thế nào. Susan, anh đến để cứu em ư? Cô ấy sẽ cười vào mặt anh.
– Có chuyện gì vậy?
– Đó là chuyện về Monte.
– Chuyện gì về anh ấy vậy? – Cô chau mầy.
– Đây mới là phần khó khăn. Làm sao anh có thể nói với cô chuyện mà chính anh cũng chưa biết? Tất cả những gì anh biết là có một chuyện gì đó nghiêm trọng lắm. Đúng là Monte Banks có trong bộ nhớ của FBI, với một phiêu lưu ý: Không được tiết lộ thông tin nào nếu không được sự cho phép thích hợp. Và việc thẩm tra đã lập tức bị đá ngược lại đối với Cục Tình báo hải quân. Vì sao?
– Anh không nghĩ là anh ta, anh ta có gì đó có vẻ không thật.
– Em không hiểu.
– Susan, anh ta kiếm tiền từ đâu hả?
Cô có vẻ ngạc nhiên trước câu hỏi nầy.
– Monte có một doanh nghiệp xuất khẩu rất thành công.
Cái thứ vỏ bọc cổ lỗ nhất trên thế gian nầy.
Lẽ ra anh phải biết là không nên đến đây để đưa ra cái lập luận nửa vời của mình mới phải. Anh cảm thấy mình ngớ ngẩn. Susan đang đợi câu trả lời và anh không có gì để nói.
– Vì sao anh lại hỏi như thế?
– Anh, anh chỉ muốn tin chắc rằng anh ta là người thích hợp cho em mà thôi, – Robert nói không ra đâu vào đâu.
– Ôi Robert. – Giọng cô đầy vẻ thất vọng.
Anh cho là anh không nên đến đây. Đúng thế, anh bạn.
– Anh xin lỗi em.
Susan bước đến và ôm lấy anh. Cô dịu dàng nói.
– Em hiểu.
Nhưng cô đâu có hiểu gì. Cô đã không hiểu rằng một cuộc thẩm tra bình thường về Monte Banks đã bị chặn đứng lại, hất ngược về Cục Tình báo hải quân và cái người toan tìm kiếm những thông tin đó đã bị loại bỏ.
Có những cách khác để thu thập thông tin và Robert bắt tay vào việc tìm kiếm chúng một cách thận trọng.
Anh gọi điện cho một người bạn làm ở tạp chí Forbes.
– Robert. Lâu quá không gặp. Tôi có thể giúp gì anh thế?
Robert nói chuyện với anh ta.
– Monte Banks à? Rất thú vị là anh đã nhắc đến tên anh ta. Chúng tôi nghĩ rằng anh ta phải có tên trong danh sách Bốn trăm người giàu nhất của tờ Forbes nầy, nhưng mà không kiếm đâu ra thông tin về anh ta cả. Anh có gì cho chúng tôi không đấy?
Một con số không.
Robert đi tới thư viện công cộng tìm kiếm cái tên Monte Banks trong cuốn Tiểu sử các nhân vật. Hắn ta không có tên trong đó.
– Anh quay lại tìm kiếm trong bộ phận lưu trữ các số báo Bưu điện Washington xung quanh thời gian Monte Banks bị tai nạn máy bay. Có một mẩu nhỏ về vụ tai nạn nầy. Nó nhắc đến Banks như một nhà doanh nghiệp.
Tất cả đều có vẻ trong sáng cả. Có thể mình nhầm, Robert nghĩ. Có thể thằng cha Monte Banks nầy chẳng có vấn đề gì cả. Chính phủ đã không bảo vệ cho hắn nếu như hắn là một tên gián điệp, một tên tội phạm hoặc một tên buôn lậu ma tuý… Sự thật là mình vẫn đang cố bám vào Susan mà thôi.
Trở lại với cuộc sống độc thân là một nỗi cô đơn, một sự trống rỗng, một chuỗi những ngày bận rộn và những đêm mất ngủ. Một cơn sóng tuyệt vọng thường tràn lên anh một cách bất chợt và anh thường phải khóc. Anh khóc cho bản thân mình, cho Susan và cho tất cả những gì mà họ đã mất. Sự hiện diện của Susan có ở mọi nơi. Căn hộ nầy vẫn đầy kỷ niệm về cô. Robert đau khổ với tất cả những điều nhắc nhở ấy, và mỗi phòng đều hành hạ anh với những hồi tưởng về giọng nói của Susan, tiếng cười và sự nồng ấm của cô. Anh nhớ tất cả những đường cong mềm mại trên thân thề cộ khi cô nằm trần truồng trên giường đợi anh, và nỗi đau trong anh là không thể chịu đựng nổi.
Bạn bè quan tâm tới anh.
– Đừng phiền muộn, Robert.
Và sự quan tâm của họ đều thống nhất ở một việc:
– Tớ sẽ kiếm cho cậu một con bé.
Họ là những cô gái xinh đẹp và gợi tình, cao có, thấp có. Họ là những người mẫu, những cô thư ký, những người làm nghề quảng cáo, những phụ nữ bỏ chồng và những nữ luật sư. Nhưng không có ai trong số họ là Susan. Anh không có gì chung với bất kỳ ai trong số họ, và việc cố chuyện trò một chút với những cô gái xa lạ mà anh không hề quan tâm chỉ làm cho anh cảm thấy cô đơn hơn. Robert không có ham muốn kéo một ai trong số họ vào giường ngủ. Anh muốn có một mình. Anh muốn quay lại cuốn phim kia từ đầu và viết lại kịch bản của nó.
Khi nhìn lại, thật dễ thấy những sai lầm của anh, dễ thấy phải sửa lại cái kịch bản với Đô đốc Whittaker như thế nào.
CIA bị thâm nhập bởi một người mang mật danh Con Cáo. Ông phó giám đốc đã yêu cầu để anh tìm kiếm hắn.
Không, thưa Đô đốc. Xin lỗi. Tôi đang chuẩn bị đưa vợ tôi đi hưởng tuần trăng mật thứ hai.
Anh muốn thay đổi lại cuộc đời mình, để nó có một kết thúc đẹp đẽ. Nhưng đã quá muộn. Cuộc sống không dành cho những cơ hội lần thứ hai. Anh đã hoàn toàn cô độc. Anh tự đi mua sắm, tự nấu ăn và đi tới hiệu giặt là gần đó mỗi khi anh ở nhà.
Đó là một thời gian cô đơn và khổ sở nhất trong đời Robert. Nhưng thế cũng vẫn còn chưa phải là điều tệ hại nhất. Một người phụ nữ làm nghề thiết kế thời trang xinh đẹp mà anh gặp ở Washington đã mấy lần gọi điện mời anh đi ăn tối. Robert thật sự không muốn, nhưng sau cùng thì anh cũng nhận lời. Cô ta đã chụẩn bị một bữa tối ngon lành cho hai người dưới ánh sáng của những ngọn nến.
– Em là một đầu bếp giỏi, – Robert nói.
– Chuyện gì em cũng giỏi cả. – Và không có gì để nhẩm lẫn trong ý cô ta hết. Cô ta nhích lại gần anh hơn. – Hãy để em chứng tỏ cho anh thấy nhé. – Cô ta đặt tay lên hai đùi anh và đưa đầu lưỡi mơn trớn môi anh.
Đã lâu quá rồi, Robert nghĩ. Có thể là quá lâu thật.
Họ cùng nhau lên giường, và trước sự thất kinh của Robert, đó là một tai hoạ. Lần đầu tiên trong đời, anh hoàn toàn bất lực. Anh cảm thấy nhục nhã.
– Đừng phiền lòng, anh yêu, – Cô ta nói. – Rồi đâu sẽ vào đấy thôi.
Cô ta đã nhầm.
Robert trở về nhà, cảm thấy ngượng ngùng và chán nản. Anh biết rằng thật là điên rồ và ngớ ngần, anh đã cảm thấy việc làm tình với một phụ nữ khác là một sự phản bội đối với Susan. Sao mình lại có thể ngu ngốc đến thế nhỉ?
Vài tuần sau đó, anh lại thứ làm tình với một nữ thư ký xinh xắn ở Cục Tình báo hải quân. Trên giường, cô gái đầy nhục cảm, mơn trớn khắp thân thể anh và ngậm anh trong cái miệng nóng ấm của cô. Nhưng không ăn thua gì. Anh chỉ muốn có Susan. Sau lần ấy anh không thử nữa. Anh đã nghĩ tới việc phải đến bác sĩ, nhưng lại thấy quá ngượng ngùng. Anh biết câu trả lời đối với vấn đề của anh, và nó không hề có liên quan gì đến chuyện y tế cả. Anh đành dồn tất cả sức lực của mình vào công việc.
Susan gọi điện cho anh ít nhất mỗi tuần một lần.
“Đừng quên lấy quần áo ở chỗ hiệu giặt, – Cô thường nói. Hoặc. “Em đang cho một cô giúp việc đến chỗ anh để dọn dẹp căn hộ. Em cá với anh rằng nhà cửa rất lộn xộn đấy”.
Mỗi cú điện thoại lại làm cho sự đơn độc càng trở nên khó chịu đựng hơn.
Cô đã gọi điện cho anh vào đêm trước ngày cưới.
– Anh Robert, em muốn anh biết rằng ngày mai em cưới.
Anh thấy ngạt thở. Anh hổn hển nói.
– Susan.
– Em yêu Monte, – Cô nói, nhưng em cũng yêu anh. Em sẽ yêu anh đến chết. Em không muốn anh quên điều đó.
Còn biết đáp lại thế nào?
– Robert, anh có sao không?
Chắc chắn là không sao. Mạnh khoẻ. Trừ một việc mình là một thằng quan hoạn khốn kiếp. Bỏ cái tính từ đó đi.
– Anh Robert?
– Anh không thể nào làm cô phiền lòng vì chuyện của mình.
– Anh khoẻ. Song, anh xin em một điều thôi, được chứ, em yêu?
– Bất cứ điều gì mà em có thể làm được.
– Đừng… đừng để hắn ta đưa em đi trong tuần trăng mật tới những nơi mà chúng ta đã từng đến.
Anh cúp máy, lao ra ngoài và đi uống đến say mèm.
Đó là chuyện một năm trước. Đó là quá khứ. Anh đã bị buộc phải đối mặt với thực tế là giờ đây Susan thuộc về một người khác. Anh buộc phải sống trong hiện tại. Anh có công việc để làm. Bây giờ đã đến lúc phải nói chuyện với Leslie Mothershed, tay thợ ảnh đã chụp những tấm hình và có tên của các nhân chứng mà Robert có nhiệm vụ phải tìm kiếm trong chuyến công tác cuối cùng nầy của anh.
Lislie Mothershed đang ở trong một tâm trạng phấn khích. Ngay khi trở về tới London, khư khư cuộn phim quý giá, anh ta vội vã lao vào cái phòng kho nhỏ mà anh ta đã biến thành buồng tối và kiểm tra lại mọi thứ đồ nghề: khay tráng, nhiệt biểu, những cái cặp bốn cái bình lớn, đồng hồ, thuốc rửa, thuốc hiện, thuốc hãm. Anh ta bật một ngọn đèn đỏ nhỏ phía trền đầu rồi hai bàn tay run lên, lấy cuộn phim ra. Anh ta thở mạnh, cố tự kiềm chế.
Anh ta thở mạnh, cố tự kiềm chế. Lần nầy không được để có sai sót gì, anh ta nghĩ. Không sai sót gì cả. Mẹ ơỉ, cái nầy là để cho mẹ đây.
Một cách thận trọng, anh ta cuốn phim vào chiếc lõi đặt vào trong khay và đổ thuốc rửa vào, thứ dung dịch đầu tiên mà anh ta sẽ phải dùng đến. Nó đòi hỏi giữ đều ở nhiệt độ 20oC và thỉnh thoảng lại phải khuấy đều. Sau mười một phút, anh ta đổ hết cái dung dịch đó đi và đổ thuốc hãm vào.
Lishe lại bắt đầu hồi hộp, lo sợ có một nhầm lẫn nào đó. Anh ta trút bỏ thuốc hãm để rửa lần đầu và rồi để phim nằm trong một khay đầy nước trong vòng mười phút. Sau đó là hai phút liên tục khuấy động trong một chất tẩy; và mười hai phút nữa trong nước. Ba mươi giây ngâm trong một dung dịch khác để đảm bảo không còn những vết lỗi trên phim âm bản. Sau cùng, hết sức thận trọng, anh ta lấy phim ra và treo nó lên bằng những chiếc cặp và dùng một miếng thấm để thấm đi những giọt nước cuối cùng trên phim. Anh ta đợi một cách kiên nhẫn để cuộn phim âm bản khô đi.
Đã đến lúc nhìn thấy một chút. Mothershed cầm đoạn phim đầu tiên lên, nín thở trong tiếng tim đập thinh thịch, và giơ nó lên trước ánh sáng. Hoàn hảo.
Tuyệt đối hoàn hảo.
Mỗi tấm phim là một viên ngọc, một bức ảnh mà bất kỳ nhiếp ảnh gia nào trên thế giới cũng phải tự hào nếu như chụp được nó. Mọi chi tiết của chiếc phi thuyền không gian lạ kia đều rõ ràng, kể cả những cái xác của hai sinh vật lạ nằm trong đó.
Mắt Mothershed chợt chú ý vào hai thứ mà trước đó anh ta đã không hề để ý, và anh ta xem lại cẩn thận hơn. Ở nơi mà vỏ chiếc phi thuyền vỡ ra, anh ta có thể trông thấy ba cái đi văng nhỏ bên trong thế nhưng lại chỉ có hai sinh vật lạ. Điều lạ nữa là bàn tay của một trong hai sinh vật kia đã bị chặt đứt. Không hề nhìn thấy chỗ nào trong tấm ảnh đó có bàn tay đó. Có thể là sinh vật nầy chỉ có một tay, Mothershed nghĩ.
Lạy Chúa, những bức ảnh nầy là tuyệt tác. Mẹ nói đúng. Mình là một thiên tài. Anh ta nhìn quanh căn phòng nhỏ và nghĩ. Lần sau mình sẽ rửa phim trong một căn buồng tối rộng rãi, đẹp đẽ trong biệt thự của mình ở Eaton Square.
Anh ta sờ mó những tấm phim quý giá như kẻ hà tiện sờ mó những đồng vàng của mình. Không một tờ báo hay tạp chí nào trên thế giới lại khỏng bất chấp mọi giá để có được tấm hình nầy. Suốt những năm vừa qua, những kẻ khốn kiếp đó đã khước từ những tấm ảnh của anh ta vớì dòng ghi chú đầy báng bổ. Cảm ơn ông đã gửi những tấm ảnh mà chúng tôi gửi trả nơi đây. Chúng không phù hợp với nhu cầu hiện nay của chúng tôi? Và, Cảm ơn ông đã gửi tới. Chúng quá giống với những tấm ảnh mà chúng tôi đã in. Hay đơn giản là, Chúng tôi gửi trả những tấm ảnh mà ông đã gửi tới?
Trong nhiều năm, anh ta đã phải cầu cạnh những kẻ khốn kiếp nầy để có công ăn việc làm và bây giờ chúng sẽ phải bò đến đây, và anh ta sẽ bắt chúng phải trả giá.
Lishe không thể chờ đợi được nữa. Anh ta phải bắt đầu ngay lập tức. Do chỗ cái công ty Điện thoại Anh đốn mạt kia đã cắt điện thoại của anh ta chỉ đơn thuần vì lẽ quý vừa qua chậm trả tiền có vàì ba tuần lễ, Mothershed phải ra ngoài để gọi. Cao hứng, anh ta quyết định tới tiệm Langan, một tiệm ăn có tiếng, và tự thết mình một bữa trưa xứng đáng. Tiệm Langan là quá cao so với khả năng tài chính của Lislie, nhưng nếu như có một dịp kỷ niệm nào đó thì chính là lúc nầy dây. Chẳng nhẽ không phải anh ta sắp trở nên giàu có và nổi tiếng sao?
Người phục vụ đưa Mothershed tới ngồi vào một chiếc bàn nơi góc phòng, và ở đó, tại một bàn cách chừng ba mét, anh ta nhìn thấy hai khuôn mặt quen thuộc Anh ta đột nhiên nhận ra họ là ai, và thoáng run người lên. Chính là Michael Caine và Roger Moore.
Lislie mong giá như mẹ mình còn sống để có thể nghe kể lại về điều nầy. Bà rất thích được đọc về những minh tinh màn bạc. Hai người đàn ông kia đang nói cười vui vẻ không có chút bận tâm gì trên đời, và Mothershed không thể nào không nhìn họ. Họ không hề để mắt đến anh ta. Hal thằng cha hợm hĩnh. Leslie Mothershed nghĩ một cách giận dữ. Chắc họ chờ mình tới xin chữ ký. Hừm, chỉ vài ngày nữa thì họ sẽ phải xin mình ấy chứ. Họ sẽ sấp sấp ngửa ngửa để mà giới thiệu mình với bạn bè của họ. “Leslie, tôi muốn ông gặp Charles và Di, và đây là Fergie và Andrew. Leslie, các vị biết rồi, người đã chụp nhưng bức ảnh nổi tiếng về cái vật thể bay lạ kia”. Lúc Mothershed ăn xong, anh ta đi qua hai minh tinh kia và lên gác để tới buồng điện thoại. Bộ phận hỏi đáp cho anh số máy của tờ Sun.
– Tôi muốn gặp người phụ trách biên tập ảnh.
– Chapman đây. – Một giọng đàn ông cất lên.
– Liệu có giá trị gì với ông nếu như ông có những tấm ảnh về một vật thể bay lạ vớì những xác chết của hai sinh vật lạ trong đó không hả?
Giọng ở đầu dây đằng kia nói:
– Nếu như những tấm ảnh xem được thì chúng tôi có thể sử dụng như là thí dụ về một trò đùa thông minh và…
Mothershed nói một cách gay gắt:
– Chuyện nầy không phải là một trò đùa. Tôi có tên của chín nhân chứng có tiếng tăm, là những người sẽ làm chứng rằng đó là sự thật, trong đó có một tu sĩ.
Giọng của người đàn ông kia thay đổi.
– Ô? Và những bức ảnh nầy được chụp ở đâu thế?
– Chuyện đó thì ông khỏi quan tâm, – Leslie thoái thác. Anh ta sẽ không chịu để họ lừa để biết bất kỳ một thông tin nào. – Ý ông thế nào?
Giọng nói kia đầy vẻ thận trọng:
– Nếu như ông có thể chứng minh những bức ảnh đó là xác thực, thì đúng là chúng tôi sẽ rất quan tâm tới chúng.
Chắc chắn là thế rồi, Leslie sung sướng nghĩ.
– Tôi sẽ liên lạc lại với ông. – Anh ta gác máy.
Hai cú điện thoại nữa cũng hài lòng như thế. Leslie đã phải tự nghĩ rằng việc kiếm tên và địa chỉ của các nhân chứng là một nước cờ thiên tài. Giờ thì không kẻ nào có thể vu cho anh ta là cố tình bịp bợm. Những tấm ảnh nầy chuẩn bị xuất hiện trên trang đầu của tất cả những tờ báo và tạp chí lớn nhất thế giới. Với tên tuổi của mình: ảnh của Leslie Mothershed.
Khi Mothershed rời tiệm ăn, anh ta đã không thể cưỡng lại việc bước lại bên chiếc bàn nơi hai ngôi sao màn bạc đang ngồi.
– Xin lỗi. Xin lỗi vì đã quấy rầy quý vị, song tôi muốn được xin chữ ký của quý vị, được chứ ạ?
Roger Moore và Michael Caine mỉm cười một cách thân mật. Họ ký tên lên hai mảnh giấy và trao chúng cho tay thợ chụp ảnh.
– Cảm ơn.
Khi Leslie Mothershed ra tới bên ngoài, anh ta xé toạc những mảnh giấy và ném chúng đi.
Thây kệ họ. Anh ta nghĩ. Mình còn quan trọng hơn họ nhiều.
Robert móc ra một tấm thẻ căn cước của Bộ Quốc phòng và giơ lên.
– Ông Mothershed, tôi tới đây vì công việc. Chúng ta có thể nói chuyện ở đây hoặc về là Bộ.
Đó là một trò bịp. Thế nhưng anh có thể thấy rõ nỗi sợ hãi trên mặt tay thợ ảnh.
– Tôi không rõ ông đang nói về chuyện gì cả; nhưng… mời vào. – Leslie nuốt nước miếng.
Robert bước vào căn phòng tồi tàn. Nó đầy vẻ ảm đạm, chẳng ra đâu vào đâu, một chỗ mà chẳng ai muốn sống cả.
– Xin ông vui lòng giải thích rõ là ông đến có việc gì ạ? Mothershed cố lấy giọng bình thản.
– Tôi tới để chất vấn ông về một vài tấm ảnh mà ông đã chụp.
– Anh ta biết mà. Anh ta đã biết ngay từ khi nghe thấy tiếng chuông gọi cửa. Bọn khốn kiếp đang toan cướp vận may của mình. Hừ, mình sẹ không để cho chúng làm được điều đó.
– Ông nói những bức ảnh nào vậy?
– Những bức ảnh mà ông chụp tại nơi một vật thể bay lạ bị rơi. – Robert nói một cách kiên nhẫn.
Mothershed nhìn Robert một thoáng, như thể bị ngạc nhiên, và rồi cố phá lên cười.
– Ồ, ra thế. Tôi mong giá mà tôi có chúng để đưa cho ông.
– Ông đã chụp những tấm ảnh đó chứ?
– Tôi đã cố.
– Ý ông nói gì… ông đã cố ư?
– Chẳng được cái quái gì cả. – Mothershed húng hắng ho. – Máy của tôi bị lọt sáng. Đây là lần thứ hai tôi bị thế nầy. – Anh ta bắt đầu ba hoa.- Thậm chí tôi đã ném cả phim đi. Chúng chẳng ra làm sao. Phí cả phim. Và hẳn ông biết là độ nầy phim đắt thế nào.
Anh ta là một kẻ nói dối tồi, Robert nghĩ. Anh ta đã quá lo sợ. Robert nói vẻ thông cảm:
– Chán thật. Lẽ ra thì những tấm ảnh đó sẽ rất có ích đấy.
Anh không đả động gì tới danh sách những hành khách kia. Nếu như Mothershed đã nói dối về những tấm ảnh thì anh ta cũng sẽ nói dối về những hành khách. Robert đưa mắt nhìn quanh. Những tấm ảnh và cả bản danh sách phải được giấu đâu đó. Hẳn là không khó tìm. Căn hộ bao gồm một phòng khách nhỏ, phòng ngủ, phòng tắm và có một cái cửa hình như dẫn vào một phòng xép. Không có cách nào có thể buộc người đàn ông nầy đưa ra những thứ kia. Nhưng anh muốn có những tấm ảnh và bản danh sách đó trước khi Cơ quan Tình báo Anh mò tới và nẫng chúng đi. Anh cần bản danh sách đó cho chính mình.
– Vâng. – Mothershed thở dài. – Những tấm ảnh đó đáng giá cả một gia tài ấy chứ.
– Hãy kể cho tôi nghe về chiếc phi thuyền không gian đi xem nào, – Robert nói.
Mothershed nhún vai ra vẻ miễn cưỡng. Cái cảnh khủng khiếp đó đã in vào óc anh ta mãi mãi.
– Tôi sẽ không bao giờ quên được nó, – anh ta nói. – Chiếc phi thuyền dương như… rung động, như thể nó vẫn còn đang hoạt động. Nó có cái gì đó thật khủng khiếp. Và ở bên trong có xác của hai sinh vật lạ.
– Ông có thể kể cho tôi nghe đôi điều về những người khách đi trên chiếc xe bus được chứ.
Chắc chắn rồi, Mothershed nghĩ một cách hả hê. Tôi có tên và địa chỉ của họ.
– Không, tôi sợ là không thể. – Mothershed tiếp tục cố giấu đi sự hồi hộp của mình. – Lý do tôi không thể giúp gì ông về những người khách là ở chỗ tôi không đi chiếc xe đó. Tất cả bọn họ đều là những người lạ.
– Tôi hiểu. Ồ, cảm ơn về sự hợp tác của ông, ông Mothershed. Tôi đánh giá cao điều đó. Lấy làm tiếc về những tấm ảnh của ông.
– Tôi cũng vậy, – Mothershed nói.
Anh ta nhìn cánh cửa khép lại sau lưng người lạ kia và sung sướng nghĩ. Mình cừ thật. Mình đã qua mặt bọn chó đẻ kia.
Bên ngoài hành lang, Robert đang xem xét cái ổ khoá trên cánh cửa. Một ổ khoá Chubb. Và là một model cổ. Anh chỉ cần vài giây để mở nó. Anh sẽ theo dõi ngôi nhà vào lúc nữa đêm và chờ tay thợ ảnh rời khỏi nhà vào buổi sáng. Một khi mình có danh sách những hành khách kia trong tay thì nhiệm vụ còn lại sẽ là đơn giản.
Robert thuê phòng trong một khách sạn nhỏ gần căn hộ của Mothershed và gọi điện cho tướng Hilliard.
– Thưa tướng quân, tôi có tên của tay nhân chứng người Anh.
– Đợi một chút. Rồi. Nói đi, ông sĩ quan.
– Leslie Mothershed. Anh ta sống ở Whitechael, số 213 A đường Grove.
Robert không nhắc tới bản danh sách hành khách và những tấm ảnh. Cái đó là những con chủ bài của anh trong vụ nầy.
Cửa hiệu Reggir nằm trong một ngõ cụt nhỏ trên đường Brompton. Đó là một cửa hiệu nhỏ mà khách hàng của nó chủ yếu là đám nhân viên và thư ký làm việc quanh đó. Những bức tường cửa hiệu phủ đầy áp phích quảng cáo về bóng đá và những phần tường còn có thể nhìn thấy thì không hề được quét vôi kể từ cuộc chiến tranh ở kênh Suez.
Chiếc điện thoại ở sau quầy hàng réo vang hai lần trước khi một người đàn ông to lớn mặc chiếc áo len to sù nhấc ống nghe lên. Người đàn ông trông rõ là kẻ sống ở khu Đông thành phố, trừ cái kính một mắt có gọng bịt vàng được gắn chặt phía trong tròng à rõ ràng đối với bất kỳ ai nhìn ông ta kỹ một chút: Con mắt kia của ông ta là bằng thuỷ tinh màu xanh da trời thường thấy trên các quảng cáo du lịch.
– Reggie đây.
– Đây là Giám mục.
– Dạ, thưa ngài, – Reggie nói, giọng ông ta đột nhiên chỉ còn là một lời thì thầm.
– Tên của khách hàng chúng ta là Mothershed. Tên thường gọi là Leslie. Sống ở 213 A đường Grove. Chúng tôi muốn đơn đặt hàng nầy phải được thực hiện nhanh chóng. Rõ chưa.
– Thưa ngài, việc coi như đã xong.
Leslie Mothershed miên man trong giấc mơ vàng ngọc.
Anh ta đang được giới báo chí quốc tế phỏng vấn. Họ đang hỏi về cái lâu đài khổng lồ mà anh ta vừa mua ở Scotland, về cái biệt thự của anh ta ở miền Nam nước Pháp và về chiếc du thuyền lớn. Và có đúng là Nữ Hoàng đã mời ông nhận chân nhiếp ảnh gia chính thức của Hoàng gia không?. Đúng. Tôi nói là tôi sẽ trả lời sau. Còn bây giờ, thưa các quý bà và quý ông, xin tất cả các vị thứ lỗi cho, tôi không kịp hẹn chương trình của tôi với đài BBC mất…
Cơn mơ màng của anh ta bị phá ngang bởi tiếng chuông cửa. Anh ta nhìn đồng hồ. Mười một giờ. Thằng chó đẻ quay lại à? Anh ta bước đến bên cửa và thận trọng mở cửa. Trước ngưỡng cửa là một người đàn ông thấp lùn hơn Mothershed (đó là điều đầu tiên anh ta chú ý) với cặp kính dầy cộp và một khuôn mặt gầy guộc, tái xám.
– Xin lỗi, – người đàn ông rụt rè nói. – Tôi xin lỗi là đã làm phiền ông vào giờ nầy. Tôi sống ở cuối phố.
– Tôi thấy tấm biển ở ngoài nói ông là một thợ ảnh.
– Việc gì hả?
– Ông có làm ảnh hộ chiếu không ạ?
Leslie Mothershed làm ảnh hộ chiếu? Con người sắp có cả thế giới nầy ấy à? Điều đó cũng giống như đòi Mechelangelo quét vôi buồng tắm vậy.
– Không, – anh ta thô bạo nói và toan khép cửa lại.
– Thực sự là tôi không muốn làm phiền ông, nhưng tôi đang kẹt quá: Chuyến bay đi Tokyo của tôi là vào tám giờ sáng mai, thế mà trước đây một chút tôi lấy hộ chiếu ra xem và lạ rằng không hiểu thế nào mà cái ảnh bị bong ra. Không thấy đâu cả. Tôi đã tìm khắp mọi nơi. Họ sẽ không cho tôi lên máy bay khi mà hộ chiếu không có ảnh. – Người đàn ông nhỏ bé gần như sắp phát khóc.
– Tôi lấy làm tiếc, – Mothershed nói, – tôi không thể giúp ông.
– Tôi xin trả ông một trăm bảng.
Một trăm bảng? Cho một người có cả một lâu đài một biệt thự và một du thuyền ư? Đó là một sự xúc phạm.
Người đàn ông nhỏ bé, yếu ớt kia nói tiếp:
– Thậm chí tôi có thể trả cao hơn. Hai trăm hoặc ba trăm. Ông biết đấy, thực sự là tôi phải có mặt trên chuyến bay đó, nếu không tôi sẽ bị mất chỗ làm việc của mình.
Ba trăm bảng để chụp một tấm ảnh hộ chiếu.
Không kể việc rửa ảnh thì nó chỉ mất chừng mười giây Mothershed bắt đầu tính toán. Điều đó có nghĩa là 1800 bảng một phút. Một nghìn tám trăm bảng một phút có nghĩa là 10800 bảng một giờ. Nếu như anh ta làm một ngày tám tiếng, điều đó có nghĩa là 94400 bảng một ngày. Trong một tuần, con số đó sẽ là…
– Ông sẽ làm chứ ạ?
Sự hợm hĩnh của Mothershed bị thách thức bởi lòng tham và lòng tham đã thắng. Mình có thể có một chút tiền tiêu vặt.
– Mời vào, – Mothershed nói. – Đứng sát vào bức tường kia đi.
– Cám ơn. Tôi thật sự biết ơn ông.
Mothershed thầm mong anh ta có một chiếc máy ảnh polaroid. Cái máy đó sẽ làm mọi việc trở nên thật đơn giản. Anh ta cầm chiếc Vivitar của mình lên và nói:
– Yên nhé.
Mười giây sau, việc đã xong.
Sẽ phải mất một chút thời gian đề rửa ảnh, Mothershed nói. – Nếu như ông trở lại vào lúc…
– Nếu không có gì phiền thì tôi xin chờ.
– Tuỳ ông thôi.
Mothershed cầm chiếc máy ảnh đi vào phòng tối, đút nó vào trong cái túi đen, tắt chiếc đèn trên đầu và bật ngọn đèn đỏ, rồi tháo phim ra.
Anh ta sẽ làm việc nầy một cách qua quýt. Dù sao thì ảnh hộ chiếu trông cũng thường xấu xí. Mười lăm phút sau, khi Mothershed đang ngâm phim trong thuốc hiện thì bắt đầu ngửi thấy mùi khói. Anh ta ngừng tay. Có phải là mình tưởng tượng ra không nhỉ? Không. Mùi khói mỗi lúc một nồng nặc hơn. Anh ta quay ra mở cửa.
Cửa dường như bị kẹt. Mothershed đẩy mạnh. Cánh cửa vẫn đóng chặt.
– Nầy, – anh ta gọi vọng ra. – Có chuyện gì ngoài ấy thế?
Không có tiếng đáp lại.
– Nầy! – Anh ta tì vai vào cánh cửa cố đẩy ra nhưng dường như ở phía ngoài có một vật gì đó đè nặng giữ chặt cánh cửa. – Ông gì ơi?
Không có tiếng trả lời. Âm thanh duy nhất mà anh ta nghe thấy ở bên ngoài đó là một tiếng đổ vỡ lớn. Mùi khói càng thêm nồng nặc. Căn hộ đang bị cháy. Có thể vì thế mà ông ta chạy ra. Hẳn là ông ta đang đi kêu cứu. Leslie Mothershed lao vai vào cánh cửa mạnh hơn, nhưng cánh cửa không bật ra.
– Cứu – Anh ta thét lên. – Cứu tôi với.
Khói bắt đầu tràn vào phía dưới cánh cửa, và Mothershed cảm thấy lửa đang bắt đầu liếm vào nó. Không khí trở nên ngột ngạt. Anh ta bắt đầu nghẹt thở. Phổi anh ta bỏng rát và anh ta bắt đầu ngất đi. Anh ta khuỵu xuống.
– Ôi lạy Chúa, xin đừng để con chết vào lúc nầy. Đừng vào lúc mà con sắp làm giàu có và nổi tiếng…
– Reggie đây.
– Đơn đặt hàng đã làm xong chưa?
– Thưa ngài, rồi ạ. Hơi quá lửa một chút nhưng đúng lúc.
– Tuyệt vời.
Vào lúc hai giờ sáng, khi Robert đến đường Grove để bắt đầu việc theo dõi, anh thấy đường phố bị tắc nghẽn. Khúc phố đầy những xe cứu hoả, xe cấp cứu và xe cảnh sát. Robert lách qua đám đông những người đang đứng xem và vội vã chen vào sát bên trong. Toàn bộ toà nhà bị ngọn lứa trùm lên. Từ bên ngoài, anh có thể thấy rằng căn hộ của tay thợ ảnh ở tầng hai đã bị thiêu rụi hoàn toàn.
– Chuyện xảy ra thế nào vậy? – Robert hỏi một người lính cứu hoả.
– Chúng tôi chưa rõ. Xin đứng lùi lại cho.
– Người bà con của tôi sống trong căn hộ kia. Anh ấy có làm sao không?
– Tôi e là nghiêm trọng. – Giọng anh ta trở nên thông cảm. – Hiện họ đang mang anh ta ra khỏi toà nhà đấy.
Robert trông theo hai nhân viên y tế đẩy chiếc cáng bên trên có một thi thể vào trong một chiếc xe cấp cứu.
– Tôi sống cùng với anh ấy, – Robert nói. – Tất cả xống ảo của tôi ở cả trong đó. Tôi muốn vào và…
– Chẳng ích gì đâu, thưa ông. Trong đó chẳng còn gì ngoài đống tro tàn. – Người lính cứu hoả lắc đầu.
Không còn gì ngoài tro tàn. Kể cả những tấm ảnh và bản danh sách hành khách quý giá kia với tên tuổi và địa chỉ của họ. Một sự không may khốn kiếp, Robert cay đắng nghĩ.
Tại Washington, Dustin Thornton đang ăn trưa với ông bố vợ trong một phòng ăn riêng xa hoa ở khu văn phòng của Williard Stone. Dustin Thornton cảm thấy hồi hộp. Trước mặt ông bố vợ đầy thế lực bao giờ ông ta cũng mất đi vẻ tự nhiên.
Williard Stone đang ở trong một tâm trạng vui vẻ.
– Tối qua, tôi cùng ăn tối với Tổng thống. Ông ta nói với tôi rằng ông ta rồi hài lòng về công việc của anh, Dustin.
– Con rất biết ơn.
– Anh làm việc khá đấy. Anh đang giúp vào việc chống lại đám người đó.
– Đám người nào.
– Những kẻ muốn bắt đất nước vĩ đại nầy phải quỳ gối. Nhưng không chỉ là những kẻ thù bên ngoài đòi hỏi chúng ta phải cảnh giác. Đám đó là cả những kẻ làm ra bộ phục vụ đất nước của chúng ta, nhưng không hoàn thành bổn phận của mình. Nhưng kẻ không chấp hành mệnh lệnh.
– Những kẻ lầm lạc.
– Đúng thế đó. Dustin. Những kẻ lầm lạc. Chúng phải bị trừng phạt. Nếu như…
Một người đàn ông bước vào phòng.
– Xin thứ lỗi cho tôi, thưa ông Stone. Các quý ông đó đã đến. Họ đang đợi ông ạ.
– Được Stone quay sang con rể. – Ăn cho xong đi Dustin. Tôi có chút việc quan trọng phải làm. Có thể một hôm nào đó tôi sẽ nói lại cho anh nghe.
Các đường phố Zurich chật ních với những sinh vật trông kỳ dị có những hình thù quái gở, những tên khổng lồ dị dạng với những thân hình to lớn, kỳ cục, những cặp mắt nhỏ xíu và mầu da giống như màu cá luộc Họ là giống ăn thịt và cô ghét cái thứ mùi hôi hám toả ra từ thân thể họ. Một số thuộc giống cái mang trên người những mảnh da thú, sản phẩm còn lại của những thú vật đã bị họ giết hại. Cô vẫn còn choáng váng với cái tai nạn khủng khiếp đã cướp đi sự sống của các bạn đồng hành của cô.
Cô đã ở trái đất bốn chu kỳ thời gian mà những sinh vật lạ lùng nầy gọi là tháng, và cô đã không ăn gì trong suốt thời gian đó. Cô khát đến lả người đi…
Chút nước duy nhất mà cô đã uống được là chút nước mưa trong cái máng của người chủ trại, và từ đêm đó trời không hề có mưa. Ngoài thứ nước đó thì mọi thứ nước trên trái đất nầy là không thể uống được.
Cô đã đi vào một nơi để ăn uống những thứ xa lạ nhưng cô không thể nào chịu nổi mùi hôi hám. Cô đã thử ăn rau và quả tươi của họ, nhưng chúng chẳng có vị gì và không ngon lành như thức ăn ở nhà.
Cô có tên là Duyên Dáng 1, dáng người cao, nghiêm trang, xinh đẹp với cặp mắt màu xanh lá cây ngời sáng. Kể từ lúc rời khỏi nơi xảy ra tai nạn, cô đã hoá thân thành một người trái đất, và đi qua những đám đông mà không hề bị để ý.
Cô ngồi trước một cái bàn, trên một cái ghế cứng quèo rất bần tiện được làm cho con người, và cô đọc những ý nghĩ của những sinh vật ở quanh cô.
Có hai sinh vật đang ngồi bên một chiếc bàn gần kề. Một sinh vật nói to:
Đó là cơ hội cả đời chỉ có một lần, Frank ạ. Chỉ cần năm mươi ngàn francs là anh có thể bắt đầu rồi. Anh có năm mươi ngàn francs, phải không nào? – Cô đọc những ý nghĩ trong đầu anh ta. Nào, đồ con lợn. Tao cần số tiền đó.
Tất nhiên, nhưng tôi không biết. – Tôi sẽ phải vay khoản tiền đó ở vợ tôi.
Đã bao giờ tôi xui bậy anh trong chuyện đầu tư chưa hả? – Hãy quyết định đi.
Đó là một khoản tiền lớn. – Cô ta sẽ không bao giờ đưa nó cho tôi cả.
Nhưng còn về tiềm năng? Đó là cơ hội kiếm bạc triệu đấy? – Hãy đồng ý đi.
Thôi được Tôi tham gia. – Có thể phải bán đi một ít nữ trang của cô ấy.
Mình ăn được nó rồi. Frank, anh sẽ không bao giờ phải hối tiếc đâu. – Hãn ta hoàn toàn có thể thua thiệt về thuế.
Duyên Dáng 1 không hề hiểu nổi câu chuyện đỏ có ý nghĩa gì.
Ở phía cuối phòng ăn, một người đàn ông và một người đàn bà đang cùng ngồi bên một chiếc bàn. Họ đang thì thầm nói chuyện với nhau. Cô định thần để lắng nghe câu chuyện của họ.
Lạy Chúa. – Người đàn ông nói. – Quái quỷ thế nào mà em lại có chửa được hả? Cô là đồ ngu ngốc.
Thế anh nghĩ vì sao mà em có chửa hả? – Vì báu vật giống đực của anh đấy.
Có chửa là cách mà những sinh vật nầy thai nghén, sinh sản một cách vụng về bằng các cơ quan sinh dục, của họ, giống như những con vật trên cánh đồng vậy.
Tina, về chuyện nầy em định thế nào? – Cô ta phải đi phá thai.
Ê. Anh muốn em làm gì hả? Anh bảo là anh sẽ nói với vợ anh về em mà. – Anh là một thằng nói dối khốn kiếp.
Nầy em yêu, anh sẽ nói, nhưng lúc nầy không được. – Tôi dính với cô một cách thật là điên rồ. Lẽ ra tôi phải biết cô là kẻ gây rắc rối.
Paul, lúc nầy em cũng thật buồn. Thậm chí em không còn nghĩ là anh yêu em. – Xin hãy nói là anh yêu em đi. – Tất nhiên là anh yêu em. Chỉ có điều ngay lúc nầy chính là lúc vợ anh đang gặp hoàn cảnh khó khăn. – Tôi không hề định để mất cô ấy.
Lúc nầy em cũng đang gặp khó khăn. Anh không hiểu điều đó à? Em đang mang bầu đứa con của anh. – Và anh không hề có ý định cưới tôi. Nước mắt chảy ra từ hai mắt cô ta.
Bình tĩnh nào, em yêu. Anh đảm bảo với em là mọi chuyện rồi sẽ ổn cả. Anh cũng muốn có con như em thôi. – Mình sẽ phải thuyết phục cô ta đi phá thai.
Ở cái bàn kề bên họ, một sinh vật giống đực đang ngồi một mình.
Họ đã hứa với mình. Họ nói là cuộc đua đã được ấn định, rằng mình không thể thua, và như một thằng ngốc, mình đã ném tất cả tiền cho bọn họ. Mình phải tìm cách kiếm lại trước khi đám thanh tra tới. Mình không thể nào chịu được nếu họ tống mình vào tù. Mình sẽ tự sát trước. Thề có Chúa, mình sẽ tự sát.
Tại một chiếc bàn khác, một người đàn ông và một người đàn bà đang dở câu chuyện.
– Không hề có chuyện như vậy. Đơn giản là anh đã mua ngôi nhà nghỉ xinh đẹp trên núi nầy, và anh nghĩ là sẽ tốt cho em khi đi nghỉ cuối tuần cho thoải mái. – Chúng ta sẽ có nhiều thời gian nghỉ ngơi trên giuờng của anh, cô bé ạ.
Claude, em không biết. Em chưa bao giờ đi xa với một người đàn ông nào. – Mình ngờ là anh ta tin như thế.
Phải, nhưng đây không phải là chuyện tình dục đâu. Anh chợt nghĩ đến cái nhà nghỉ bởi vì em nói là em cần được nghỉ ngơi. Em có thể nghĩ về anh như một người anh trai của em – Và chúng ta sẽ thử phạm cái tội loạn luân đầy vui thú và cổ lỗ kia xem sao.
Duyên Dáng 1 không hề biết rằng những người khác nói nhiều thứ ngôn ngữ khác nhau, bởi lẽ cô có thể chen vào trong đầu họ bằng ý thức của mình và hiểu họ đang nói gì.
Mình phải tìm cách liên lạc với tàu mẹ, cô nghĩ.
Cô lấy ra nột cái máy phát xách tay màu bạc. Đó là một hệ thống mạch liên hợp phân cách mà một nửa gồm vật chất hữu cơ sống và nửa kia gồm một hợp chất kim loại của một hệ mặt trời khác. Nhóm vật chất hữu cơ bao gồm hàng nghìn tế bào đơn lẻ để khi chúng chết đi, những tế bào mới được nhân ra và giữ cho những liên lạc liên tục. Thật không may, cái bộ phận tinh thể dùng để điều khiển chiếc máy phát đã gãy ra và rơi mất. Cô đã thử liên lạc với tàu mẹ, nhưng thiếu bộ phận nầy chiếc máy phát trở nên vô tích sự.
Cô cố ăn thêm một lá rau diếp nữa, nhưng không còn chịu nổi mùi vị của nó. Cô đứng dậy và bước ra phía cửa. Cô thu ngân gọi phía sau:
– Thưa cô, xin chờ một phút. Cô chưa trả tiền ăn.
– Tôi xin lỗi. Tôi không có thứ phương tiện thanh toán của các bạn.
– Cô có thể nói điều đó với cảnh sát ấy.
Duyên Dáng 1 nhìn thẳng vào mắt cô thu ngân và chờ cô ta khuỵu xuống. Cô quay đi và bước khỏi chỗ ăn uống đó.
Mình phải tìm cái bộ phận tinh thể. Họ đang chờ nghe tin tức của mình. Cô đã phải cố tập trung các giác quan, nhưng mọi thứ dường như cứ nhoè đi và méo mó. Không có nước, cô biết thế, cô sẽ chết mất.
Ngày thứ năm.
Bern, Thuỵ Sĩ.
Robert đang đi vào ngõ cụt. Anh không nhận ra là đã trông cậy nhiều thế nào vào việc kiếm được cái danh sách của Mothershed. Tan thành mây khói cả. Robert nghĩ. Theo đúng nghĩa đen của nó. Các dấu vết bây giờ thật mờ nhạt. Lẽ ra mình phải đoạt bản danh sách kia lúc mình ở trong căn hộ của Mothershed.
Điều đó sẽ dạy cho mình một bài học. Tất nhiên. Một ý nghĩ đâu đó có trong đầu anh chợt nổi lên. Hans Beckerman có nói: “Tất cả những hành khách đều muốn được xem cái vật thể bay lạ và những sinh vật chết trong đó, nhưng cái lão già ấy thì cứ phàn nàn đòi sớm về Benr bởi vì lão ta phải chuẩn bị một bài giảng ở trường đại học”. Chuyện thật mơ hồ, nhưng đó là tất cả những gì Robert có trong tay.
Anh thuê một cái xe ở sân bay Bern và chạy về hướng trường đại học. Anh rời khỏi đường Rathausgasse, con đường chính của thành phố Bern và lái xe chạy tới Langgassetrsase, nơi có Đại học Bern. Trường đại học nầy gồm dăm toà nhà, cao bốn tầng, với hai dãy ngang và những tượng đá lớn trên mái. Ở mỗi đầu sân, mặt trước của toà nhà là nhùng cửa sổ bằng kính của nhữtng phòng hộc, và ở phía sau trường là một khoảng vườn lớn nhìn ra sông Aare.
Robert bước lên bậc thềm của toà nhà hành chính và bước vào phòng thường trực. Thông tin duy nhất mà Beckerman trao cho anh là ông khách đó người Đức và ông ta đang chuẩn bị bài giảng cho ngày thứ Hai.
Một sinh viên đã chỉ cho anh tới Phòng hành chính.
Một phụ nữ ngồi sau bàn có một vóc người thật dễ sợ. Bà ta mặc một bộ complê cắt rất vừa vặn, mang một cặp kính gọng đen và tóc được búi thành một búi nhỏ. Bà ta ngước nhìn lên khi Robert bước vào.
– Xin mời.
Robert móc ra một tấm thẻ cảnh sát quốc tế.
– Tôi đang thực hiện một cuộc điều tra, và tôi sẽ đánh giá cao sự hợp tác, thưa cô.
– Bà. Bà Schreiber. Điều tra chuyện gì vậy?
– Tôi đang tìm kiếm một giáo sư.
– Tên ông ta? – Bà ta cau mầy.
– Tôi không biết.
– Ông không biết cả tên ông ta?
– Không. Ông ta là một giảng viên mời thôi. Ông ta có một bài giảng ở đây, cách đây vài ngày. Hôm thứ Hai.
– Ngày nào cũng, có nhiều giảng viên mời tới đây giảng bài. Môn học của ông ta là môn gì?
– Bà nói gì ạ?
– Ông ta dạy môn gì? – Giọng bà ta trở nên mất kiên nhẫn. – Ông ta dạy môn học gì?
– Tôi không biết.
Bà ta không giấu vẻ bực tức.
– Trời đất. Tôi không thể giúp ông. Và tôi không có thì giờ cho những chuyện phù phiếm nầy. Bà ta định quay đi.
– Ồ, đây không phải là chuyện phù phiếm. – Robert cam đoan với bà ta. – Hoàn toàn nghiêm túc đấy. – Anh cúi xuống và thấp giọng nói. – Tôi sẽ phải để bà biết công việc của tôi. – Vị giáo sư nầy liên quan tới một tổ chức đĩ điếm.
Bà Schreiber há mồm kinh ngạc.
– Cảnh sát quốc tế đã theo dõi ông ta trong nhiều tháng. Thông tin chúng tôi hiện có cho thấy ông ta là người Đức và rằng ông ta có một bài giảng ở đây vào ngày mười lăm tháng nầy. – Anh đứng thẳng người lên. – Nếu bà không muốn giúp đỡ, chúng tôi có thể tiến hành một cuộc điều tra chính thức tại trường nầy. Tất nhiên, dư luận…
– Không, không. – Bà ta nói. – Không thể để nhà trường liên quan tới một chuyện như vậy. – Trông bà ta đầy vẻ lo ngại. – Ông nói là ông ta giảng bài ở đây hôm nào nhỉ?
– Ngày mười lăm. Thứ hai.
Schreiber nhỏm dậy và đi tới bên tủ hồ sơ. Bà ta mở tủ và lướt qua đám giấy má. Từ một chiếc cặp, bà ta rút ra mấy tờ giấy.
– Đây rồi! Có ba giáo sư mời giảng vào hôm mười lăm.
– Người tôi muốn biết là người Đức.
Tất cả họ đều là người Đức. – Schreiber nói quả quyết. Bà ta sắp xếp mấy tờ giấy trong tay. – Một bài giảng là về các vấn đề kinh tế, một về hoá học và một về tâm lý…
– Tôi có thể xem chúng được không?
Một cách miễn cưỡng, bà ta đưa xấp giấy cho Robert.
– Anh xem kỹ từng tờ. Trên mỗi tờ đều có một cái tên với địa chỉ nhà riêng và số điện thoại.
– Nếu ông muốn, tôi có thể làm bản sao cho ông.
– Không, cảm ơn. – Anh đã nhớ tất cả những cái tên và những con số. Không có ai trong số nầy là người mà tôi đang tìm kiếm.
Bà Schreiber thở phào nhẹ nhõm.
Ôi cảm ơn Chúa. Đĩ điếm. Chúng tôi sẽ không bao giờ dinh dáng đến một chuyện như vậy.
– Xin lỗi đã làm phiền bà vì một chuyện không đâu.
Robert đi ra và hướng tới một trạm điện thoại công cộng trong thành phố.
Cú điện thoại đầu tiên là tới Berlin.
– Giáo sư Streubek phải không ạ?
– Phải.
Đây là Công ty xe du lịch Sunshine. Ông để quên kính trên chiếc xe bus của chúng tôi hôm chủ nhật trước khi ông đi du lịch ở Thuỵ Sĩ và…
– Tôi không hiểu ông muốn nói chuyện gì nữa. – Giọng ông ta có vẻ khó chịu.
– Ông ở Thuỵ Sĩ hôm mười bốn, có phải vậy không, thưa giáo sư?
– Không. Ngày mười lăm. Để giảng bài ở Đại học Bern.
– Và ông không đi chuyến xe du lịch của chúng tôi ư?
– Tôi không có thì giờ cho một chuyện ngốc nghếch như vậy. Tôi là một người bận rộn. – Và ông giáo sư gác máy.
Cú điện thoại thứ hai là tới Hamburg.
– Giáo sư Heinrich phải không ạ?
– Đây là giáo sư Heinrich!
Công ty xe du lịch Sunshine. Ông có ở Thuỵ Sĩ vào ngày mười bốn tháng nầy phải không ạ?
– Vì sao mà ông muốn biết?
Bởi vì chúng tôi tìm thấy chiếc cặp của ông trên một trong những chiếc xe bus của chúng tôi, thưa giáo sư, và…
– Ông nhầm người rồi, tôi không có mặt trên chiếc xe bus du lịch nào hết.
– Ông không đi tuyến du lịch của chúng tôi đến Jungfrau à?
– Tôi đã nói với ông rồi, không.
– Tôi xin lỗi vì đã làm phiền ông.
Cú điện thoại thứ ba được gọi tới Munich.
– Giáo sư Otto Schmidt phải không ạ?
– Vâng.
– Giáo sư Schmidt, đây là công ty xe du lịch Sunshine. Chúng tôi giữ cặp kính mà ông đã để quên trên một chiếc xe của chúng tôi cách đây ít hôm, và…
Hẳn là có chuyện nhầm lẫn rồi.
Tim Robert thắt lại. Anh đã thua. Không còn gì để mà tiếp tục nữa. Giọng nói ở đầu dây kia tiếp tục.
– Tôi có kính của tôi đây thôi. Tôi đâu có mất.
Robert chợt thấy phấn chấn.
– Ông chắc thế chứ, giáo sư? Ông đi tuyến Jungfrau ngày mười bốn có phải không ạ?
– Vâng, vâng, nhưng tôi đã nói rồi, tôi không mất gì cả mà.
– Cảm ơn ông rất nhiều, thưa giáo sư. – Robert gác máy. Vò bở rồi.
Robert, quay mấy số máy khác, và chỉ sau hai phút anh đã đang nói với tướng Hilliard.
– Tôi có hai việc phải báo cáo. – Robert nói. – Về nhân chứng ở London mà tôi đã nói với ngài.
– Sao?
– Anh ta đã chết trong một vụ cháy đêm qua.
– Thế hả? Thật tệ quá.
– Thưa ngài, vâng. Nhưng tôi tin rằng tôi đã phát hiện một nhân chứng khác. Tôi sẽ để ngài biết ngay sau khi kiểm tra lại.
– Tôi sẽ chờ báo cáo của ông, ông sĩ quan.
Tướng Hilhard đang báo cáo với Janus.
– Sĩ quan Bellamy đã phát hiện một nhân chứng nữa.
– Tốt. Nhóm công tác đang trở nên sốt ruột. Tất cả đều lo ngại rằng câu chuyện sẽ loang ra trước khi SDI đi vào hoạt động.
– Tòi sẽ sớm có những thông tin nữa cho ngài.
– Tôi không muốn thông tin, tôi muốn thấy những kết quả.
– Vâng, thưa ngài Janus.
Dustin Thornton bắt đầu cảm thấy bất an. Giờ đây ông ta có quyền lực và nó cứ như một thứ ma tuý lại muốn có thêm nữa. Bố vợ ông ta, Williard Stone, luôn hứa hẹn đưa ông ta vào một thế giới bí ẩn khép kín nào đó nhưng cho đến giờ lão vẫn chưa thực hiện lời hứa đó.
Một cách hoàn toàn ngẫu nhiên, Thornton biết rằng thứ sáu nào bố vợ mình cũng biến mất. Thornton đã gọi điện xin ăn trưa với lão.
– Xin lỗi, – thư ký của Williard Stone trả lời, – nhưng hôm nay ngài Stone đi vắng.
– Ô chán quá. Thế trưa thứ sáu tới thì sao?
– Xin lỗi ông Thornton, thứ sáu tới ngài Stone cũng sẽ đi vắng.
Lạ nhỉ và thậm chí nó còn trở nên lạ hơn khi mà hai tuần sau đó Thornton cũng gọi lại và vẫn nhận được cùng một câu trả lời. Thứ sáu nào lão già cũng biến đi đâu thế nhỉ? Lão ta không phải là người say mê chơi gôn hay đam mê một thú vui nào cả.
Lý do hẳn là một người đàn bà. Vợ của Williard Stone ưa giao thiệp và rất giàu có. Bà ta là một phụ nữ đài các và cũng có tính cách mạnh mẽ hệt ông chồng. Bà ta không phải loại phụ nữ tha thứ được cho chồng về chuyện trăng hoa. Nếu lão ta đang có một vụ ngoại tình, Thornton nghĩ, điều đó có nghĩa là mình tóm được gáy lão. Ông ta hiểu là phải tìm ra cho bằng được.
5 giờ sáng ngày thứ sáu tiếp theo đó, Dustin Thornton đã ngồi sùm sụp sau tay lái của một chiếc Ford Taurus rất bình thường, đậu cách toà dinh thự sừng sững của Willard Stone nửa dãy phố. Đó là một buổi sáng lạnh giá và ảm đạm, và Thornton luôn tự hỏi ông ta đang làm gì ở đó. Có thể là có một lời giải thích hoàn toàn hợp lý nào đó cho cái hiện tượng kỳ cục nầy của Stone.
Mình đang phí thời gian, Thornton nghĩ. Nhưng có điều gì đó đã kìm chân ông ta lại.
Lúc 7 giờ, hai cánh cổng lớn mở ra và một chiếc xe xuất hiện. Ngồi sau tay lái là Williard Stone. Thay vì chiếc xe sang trọng thường dùng, lúc nầy lão ta đang ngồi trong một chiếc xe chở hàng nhỏ, màu đen mà đám gia nhân vẫn sử dụng. Thornton đột nhiên cảm thấy hồi hộp.
Ông ta biết là mình đang phát hiện một chuyện gì đó. Người ta thường sống theo một khuôn phép riêng, và Stone đang phá vỡ cái khuôn phép ấy.
Phải là chuyện một người đàn bà.
Lái xe một cách thận trọng và giữ một khoảng cách khá xa chiếc xe chở hàng, Thornton bám theo ông bố vợ xuyên qua các đường phố Washington tới một con đường dẫn đi Arlington.
Mình phải thật tế nhị trong chuyện nầy, Thornton nghĩ. Mình không muốn làm quá mạnh. Mình sẽ thu thập tất cả các thông tin có thể có được về lão, và rồi mình sẽ lật quân bài. Mình sẽ nói với lão rằng mình chỉ quan tâm tới chuyện bảo vệ cho lão mà thôi. Lão sẽ hiểu. Lão chẳng bao giờ muốn có chuyện bê bối om sòm.
Dustin Thornton quá mải mê với những suy nghĩ đến nỗi suýt không rẽ theo Williard Stone. Họ đã tới một khu dân cư dành riêng. Chiếc xe hàng màu đen đột nhiẽn mất hút vào con đường nhỏ chạy dài trong bóng cây.
Dustin Thornton dừng xe, lựa chọn cách theo dõi tốt nhất. Liệu ông ta có nên chạm mặt với Williard trước sự không chung thuỷ của lão ta lúc nầy không? Hay nên đợi cho đến khi Stone đi khỏi và nói chuyện với người đàn bà kia trước đã? Hay nên yên lặng thu thập tất cả những thông tin cần thiết và rồi nói chuyện với ông bố vợ? Ông ta quyết định phải tìm hiểu cụ thể.
Thornton đậu xe ở một đường phụ và đi vòng theo con đường nhỏ ở phía sau ngôi nhà hai tầng kia. Một hàng rào gỗ bao quanh khu sân sau nhưng điều đó không có trở ngại gì. Thornton mở cổng và bước vào bên trong.
Ông ta đang đứng trước một khu vườn lớn, xinh đẹp và được chăm sóc chu đáo với ngôi nhà khuất phía sau.
Ông ta nhẹ nhàng đi dưới hàng cây chạy ngang bãi cỏ tới đứng bên cửa sau của ngôi nhà và tính toán bước đi tiếp theo. Ông ta cần có bằng chứng về chuyện đang xảy ra. Không có nó thì lão già sẽ cười vào mặt cho. Dù chuyện gì đang xảy ra bên trong kia thì lúc nầy thì cũng đều có thể là chìa khoá dẫn tới tương lai của ông ta. Phải tìm ra cho được.
– Rất nhẹ nhàng, Thornton thử mở cánh cửa sau.
Nó không được khoá. Ông ta lọt vào bên trong và thấy mình đang đứng trong một phòng bếp lớn kiểu cổ. Không có ai xung quanh cả.
Thornton tiến đến bên cánh cửa phụ, nhẹ nhàng đẩy ra. Trước mặt ông ta là gian tiền sảnh lớn. Ở phía đầu kia là một cánh cửa đóng kín, có thể là dẫn tới một phòng thư viện. Thornton bước tới hết sức nhẹ nhàng. Ông ta đứng nép bên cánh cửa.
Không hề có tiếng động gì bên trong. Có thể là lão già đang ở trong phòng ngủ trên gác.
Thornton đẩy cửa ra. Ông ta đứng trước ngưỡng cửa, chết đứng. Có hơn một chục người đàn ông đang ngồi trong phòng, quanh một chiếc bàn lớn.
– Vào đi Dustin, – Williard nói. – Chúng tôi đang chờ anh đấy.
Tình hình ở Rome tỏ ra là khó khăn cho Robert, một cuộc thử thách tinh thần làm cho anh kiệt sức. Anh đã đi nghỉ tuần trăng mật ở đây với Susan, và ở đây cũng đầy những kỷ niệm. Rome đồng nghĩa với Roberto, người quản lý khách sạn Hassler cho mẹ anh, một người nặng tai nhưng có thể nhìn miệng người nói để hiểu với năm thứ tiếng. Rome có nghĩa là khu vườn của biệt thự D Este ở Tivoli, và niềm vui sướng của Susan trước một trăm dòng suối do con trai của Lucretia Borgia tạo nên. Rome là Otello, dưới chân. Những bậc thềm Tây Ban Nha, rồi Toà thánh Vatican và những bức bích hoạ nổi tiếng của Michelangelo. Rome là sự pha trộn giữa những giai điều nhạc du dương ở Tre Scalini cùng tiếng cười vui của Susan, và tiếng cô nói: “Robert, hãy hứa với em là chúng mình sẽ luôn hạnh phúc như thế nầy nhé”.
Mình đang làm cái quái gì ở đây nhỉ? Robert băn khoăn. Mình không hề biết tí gì về vị tu sĩ kia, hay thậm chí là liệu ông ta có ở Rome hay không. Đã đến lúc nghỉ ngơi, về nhà và quên hết những thử nầy.
Nhưng có điều gì đó trong anh, một nét bướng bỉnh thừa kế từ một ông tồ nào đó đã chết từ lâu, ngăn không cho anh làm như vậy. Mình sẽ cố gắng một ngày nữa, Robert quyết định. Một ngày nữa thôi.
Sân bay Leonardo da Vinci thật đông người và đối với Robert thì dường như bất kỳ ai cũng có thể là một tu sĩ. Anh đang tìm kiếm một tu sĩ trong thành phố có, bao nhiêu? Năm mươi nghìn tu sĩ phải không nhỉ? Hay một trăm nghìn? Trên taxi đến khách sạn Hassler, anh chú ý tới những đám đông các tu sĩ mặc áo choàng đi trên đường phố. Không thể được, Robert nghĩ. Mình hẳn là điên thật rồi.
Anh được viên phó quản lý chào đón ở tiền sảnh khách sạn Hassler.
– Ông Bellamy. Thật mừng là lại được thấy ông.
– Cám ơn. Pietro. Ông có phòng cho tôi nghỉ lại một đêm không?
– Cho ông, tất nhiên rồi. Luôn luôn sẵn sàng.
Robert được đưa đến một phòng mà anh đã từng ở.
– Nếu có cần gì xin ông cứ…
Tôi cần một điều kỳ diệu khốn kiếp, Robert nghĩ.
Anh ngả người nằm xuống, cố tĩnh tâm.
Vì sao một tu sĩ ở Rome lại đi Thuỵ Sĩ nhỉ? Có mấy khả năng. Ông ta có thể đi nghỉ, hoặc có thể dự một hội nghị tôn giáo. Ông ta là vị tu sĩ duy nhất trên chiếc xe bus đó. Điều đó có nghĩa gì nhỉ? Không gì cả. Ngoài một điều là ông ta không cùng đi với nhóm, có thể như vậy thôi.
Bởi thế có thể là một chuyến đi thăm bạn bè hay gia đình của ông ta. Hoặc cũng có thể là ông ta đi cùng một nhóm, và riêng ngày hôm đó thì họ có những chương trình riêng lẻ. Những ý nghĩ của Robert cứ quẩn quanh trong một cái vòng tuyệt vọng.
Hãy trở lại từ đầu. Ông tu sĩ nầy đã tới Thuỵ Sĩ như thế nào nhỉ? Nhiều khả năng là ông ta không có một cái xe ô tô riêng. Ai đó có thể cho ông ta đi nhờ, nhưng khả năng nhiều hơn là việc ông ta đã đi bằng máy bay tầu hoả hoặc xe bus. Nếu là đi nghỉ thì ông ta hẳn đã không có nhiều thời gian. Bởi vậr hãy giả thiết rằng ông ta đã đi bằng máy bay.
Cách lập luận đó chẳng dẫn đến đâu cả. Các hãng hàng không không ghi lại nghề nghiệp của hành khách. Vậy thì vị tu sĩ kia cũng chỉ có một cái tên như bao nhiêu những cái tên khác trong danh sách hành khách. Nhưng nếu ông ta là thành viên của một nhóm…
Ngày thứ bảy.
Orvieto, Italia
Anh dừng xe tại một chỗ đỗ bên lề đường 71, và phía bên kia thung lũng, trên sười núi, là cái thành phố đó với cảnh quan tuyệt đẹp Đó là trung tâm Etruscan cổ với một nhà thờ lớn nổi tiếng thế giới, dăm nhà thờ khác và một tu sĩ, người đã chứng kiến vụ tai nạn của một vật thể bay lạ.
Thành phố vẫn nguyên vẹn qua năm tháng, với những đường phố lát đá và những ngôi nhà cổ duyên dáng, cùng với khu chợ trời nơi những người nông dân mang bán gà và rau quả tươi.
Robert tìm được một nơi để đỗ xe trên quảng trường Duomo. Anh băng ngang quảng trường và đi vào trong nhà thờ lớn Trong nhà thờ vắng ngắt, trừ một giáo sĩ vừa rời khỏi nơi điện thờ.
– Xin lỗi Cha, – Robert nói. Tôi đang tìm kiếm một tu sĩ ở thành phố nầy: người đã ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Có thế Cha…
Vị tu sĩ sững lại, mặt đầy vẻ khó chịu.
– Tôi không thể nói với ông chuyện nầy.
– Tôi không hiểu. Tôi chỉ muốn tìm.
Robert ngạc nhìn ông ta ngạc nhiên.
– Ông ấy không ở nhà thờ nầy. Ông ấy từ nhà thờ San Giovenale.
Và vị tu sĩ đi nhanh ngang qua Robert. Tại sao ông ta lại thiếu thiện chí thế nhỉ?
Nhà thờ San Giovenale nằm ở khu Vecchio, một khu vực đầy màu sắc với những tháp chuông và những nhà thờ thời Trung cổ. Một tu sĩ trẻ tuổi đang chăm sóc mảnh vườn cạnh đó. Ông ta ngước nhìn lên khi Robert lại gần.
– Xin chào ông.
– Xin chào. Tôi đang tìm kiếm một tu sĩ, người đã ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước. Ông ấy…
– Phải, phải. Tội nghiệp Cha Patrini. Một điều khủng khiếp đã xảy đến với ông ấy.
– Tôi không hiều. Chuyện khủng khiếp gì vậy?
– Nhìn thấy cỗ xe của quỷ dữ. Đó là điều quá sức chịu đựng của ông ấy. Ông ấy đã bị một cơn sốc thần kinh, thật tội nghiệp.
– Tôi rất lấy làm tiếc về điều đó, – Robert nói. – Bây giờ ông ấy ở đâu? Tôi muốn nói chuyện với ông ấy.
– Ông ấy đang ở bệnh viện gần quảng TSn Patrizio, nhưng tôi ngờ là các bác sĩ sẽ không cho phép ai thăm ông ấy đâu.
Robert đứng đó, bối rối. Chẳng mấy ích lợi gì với một người đang bị thần kinh.
– Tôi hiểu. Cám ơn ông rất nhiều.
Bệnh viện đó là một toà nhà một tầng khiêm nhường ở gần ngoại ô thành phố. Anh dừng xe và bước vào trong một hành lang nhỏ. Có một y tá ngồi sau bàn đón tiếp.
– Xin chào, – Robert nói. – Tôi muốn gặp Cha Patrini.
– Rất tiếc, nhưng… điều đó là không thể được. Ông ấy không thể nói gì với bất kỳ ai.
Lúc nầy, Robert quyết không để bị chặn lại. Anh phải lần theo dấu vết mà giáo sư Schmidt đã trao cho anh.
– Cô không hiểu, – Robert nhẹ nhàng nói. – Cha Patrini yêu cầu gặp tôi. Tôi đã từ Orvieto đến đây theo yêu cầu của ông ấy.
– Ông ấy yêu cầu gặp ông?
– Phải. Ông ấy viết thư sang Mỹ cho tôi. Tôi đã đi ngần ấy dặm đường tới đây chỉ để gặp ông ấy thôi.
Cô y tá lưỡng lự.
– Tôi không biết nói thế nào. Ông ấy rất nặng.
– Tôi tin chắc là ông sẽ vui hơn khi thấy tôi.
– Bác sĩ không có ở đây… – Cô quyết định. – Thôi được ông có thể tới phòng ông ấy, thưa ông, nhưng ông chỉ được phép ở đó vài phút thôi đấy.
– Tôi cũng chỉ cần có thế thôi, – Robert nói.
– Ông đi lối nầy.
Họ đi theo một hành lang ngắn, hai bên là những căn phòng nhỏ, gọn gàng. Cô y tá dẫn Robert vào một trong những phòng đó.
– Chỉ một vài phút thôi nhé, thưa ông.
– Cảm ơn.
Robert bước vào căn phòng nhỏ bé. Người đàn ông đang nằm trên giường trông như một hình nhân nhợt nhạt trên tấm vải trải giường trắng toát. Robert lại gần ông ta và nhẹ nhàng nói:
– Thưa Cha…
Vị tu sĩ quay mặt để nhìn lên anh, và Robert chưa bao giờ nhìn thấy một nỗi thống khổ nào như thế trong mắt một con người.
– Thưa Cha, tên tôi là…
Ông ta túm lấy cánh tay Robert.
– Giúp tôi với, – Vị tu sĩ lầm bầm, – Ông phải giúp tôi. Lòng tin của tôi đã mất. Cả đời tôi, tôi đã thuyết giảng về Chúa và Đức Tin, và bây giờ tôi biết là không có Chủa. Chỉ có quỷ sứ và nó đã đến để hại chúng ta…
– Thưa Cha, nếu Cha…
– Chính mắt tôi đã nhìn thấy mà. Có hai tên trong cái xe của quỷ sứ, nhưng sẽ còn nữa. Ôi! Những tên khác sẽ kéo đến. Hãy chờ xem. Tất cả chúng ta sẽ bị đày xuống địa ngục.
– Xin Cha hãy nghe tôi. Cái mà Cha nhìn thấy không phải là quỷ sứ. Đó là một con tàu vũ trụ mà.
Vị tu sĩ buông tay Robert và đột nhiên nhìn Robert với vẻ tỉnh táo hơn.
– Ông là ai? Ông muốn gì hả?
– Tôi đến đây để hỏi Cha về chuyến xe bus mà Cha đã đi ở đất Thuỵ Sĩ. – Robert nói.
– Chiếc xe bus. Giá mà tôi đã đừng đến gần nó. – Vị tu sĩ lại trở nên kích động.
Robert không muốn thúc ép ông ta, nhưng anh không có cách nào khác.
– Cha đã ngồi bên một người đàn ông trên chiếc xe đó. Một người Texas. Cha đã nói chuyện nhiều với người đó, Cha nhớ không?
– Một câu chuyện. Người Texas. Có, tôi nhớ.
– Ông ta có nói với Cha là ông ta sống ở đâu không?
– Phải, tôi có nhớ ông ta. Ông ta từ Mỹ đến.
– Đúng. Từ Texas. Ông ta có nói với Cha nhà ông ta ở đâu không?
– Có, có, ông ta có nói với tôi.
– Ở đâu thế, Cha? Nhà ông ta ở đâu?
– Texas. Ông ta nói về Texas.
– Đúng thế. – Robert gật đầu vẻ khuyến khích.
– Chính mắt tôi đã nhìn thấy chúng. Tôi mong Chúa đã làm cho tôi bị mù. Tôi…
– Thưa Cha, người đàn ông từ Texas. Ông ta có nói với Cha ông ấy ở đấy không? Ông ta có nhắc tới một cái tên nào không?
– Texas, có. Ponderosa.
Robert vẫn cố gắng.
– Đó là trên tivi. Đây là người đàn ông thật sự cơ mà. Ông ta ngồi cạnh Cha trên…
Vị tu sĩ lại hôn mê.
– Chúng đang đến đấy. Trận quyết chiến thiện ác đây rồi. Kinh Thánh nói dối. Chính quỷ dữ sẽ xâm chiếm trái đất nầy. – Lúc nầy ông ta đang hét lên thật to. – Nhìn kìa. Nhìn kìa. Tôi có thể nhìn thấy chúng.
Cô y tá vội vã bước vào. Cô nhìn Robert vẻ không bằng lòng.
– Ông phải ra đi thôi, thưa ông.
– Tôi cần một phút nữa thôi.
– Không, thưa ông. Đủ rồi.
Robert nhìn vị tu sĩ một lần cuối. Ông ra vẫn lảm nhảm rời rạc. Robert quay người bước đi. Không còn có thể làm gì hơn được nữa. Anh đã cố hết sức để vị tu sĩ dẫn dắt anh đến người Texas kia, nhưng anh đã thua.
Robert trở ra xe và chạy về Rome. Rốt cuộc thế là xong. Những dấu vết duy nhất mà anh đã bỏ lại – nểu chúng có thể được coi là những dấu vết – là lời nhắc đến một phụ nữ Nga, một người Texas, và một người Hungary. Nhưng không có cách nào để tìm ra họ được. Nước cờ tàn. Thật là buồn khi đã đi xa đến thế nầy để rồi lại bị chặn lại. Giá mà ông tu sĩ tỉnh táo đủ lâu để cung cấp được cho anh vài thông tin cần thiết. Chỉ một chút nữa. Ông tu sĩ đã nói gì nhỉ?
Ponderosa. Ông tu sĩ già đã xem tivi quá nhiều và trong cơn mê sảng, rõ ràng là ông ta đã lẫn người Texas kia vào chương trình “Bonanza” của một đạo diễn nổi tiếng trên tivi. Ponderosa, nơi gia đình h bí ẩn Cartwirght sinh sống. Ponderosa. Robert giảm ga và từ từ dừng lại bên đường, những ý nghĩ vùn vụt trong đầu anh. Anh quay ngược xe lại và lao nhanh về hướng Orvieto.
Nửa giờ sau, Robert đang nói chuyện với người chủ quán của một quán nhỏ ở quảng trường Republica.
– Các ông có một thành phố thật đẹp. – Robert nói. – Thật thanh bình.
– Ồ vâng, thưa ông. Chúng tôi hoàn toàn hài lòng với nơi đây. Ông đã bao giờ đến Italia trước đây chưa?
– Tôi có một phần của tuần trăng mật ở Rome.
Robert, anh đã làm cho tất cả những mơ ước của em trở thành sự thật. Từ hồi em còn là một con bé con, em đã muốn được đến Rome đấy?
– À Rome. Quá lớn. Quá ồn ào.
– Tôi công nhận.
– Ở nơi đây, chúng tôi sống cuộc sống bình dị nhưng chúng tôi hạnh phúc.
Robert bình thản nói:
– Tôi để ý thấy trên nhiều mái nhà ở đây có ăngten tivi.
– Ồ vâng, đúng thế. Chúng tôi hoàn toàn theo kịp thời đại trong lĩnh vực đó.
– Cái đó thì rõ. Thành phố nầy nhận được bao nhiêu kênh vô tuyến?
– Duy nhất chỉ một.
– Tôi nghĩ là các ông có khá nhiều chương trình tivi của Mỹ chứ?
– Không, không. Đây là một kênh của nhà nước. Ở đây chúng tôi chỉ có những chương trình được thực hiện ở Italia thôi.
– Cám ơn. Trúng rồi.
Robert đặt điện thoại gọi cho Đô đốc Whittaker.
Một thư ký trả lời máy.
– Văn phòng Đô đốc Whittaker đây.
Robert có thể hình dung ra căn phòng. Nó thường là một chỗ kín đáo khuất mắt dành cho những người hết thời mà chính phủ không còn sử dụng vào việc gì được nữa.
– Xin cho tôi được nói chuyện với ngài Đô đốc? Sĩ quan Bellamy đây.
– Xin ông chờ một chút, ông chỉ huy.
Robert băn khoăn liệu có còn ai liên hệ gì nữa với Đô đốc không khi mà giờ đây, vị Đô đốc một thời đầy quyền lực kia đã là một thành viên của đội quân về vườn. Có thể là không.
– Robert, rất mừng là anh gọi lại. – Giọng ông già có vẻ mệt mỏi. – Anh đang ở đâu thế?
– Thưa ngài, tôi không thể nói được.
Một thoáng ngập ngừng.
– Tôi hiểu. Tôi có thể lâm gì cho anh không đây?
– Có, thưa ngài. Việc nầy thật bất tiện vì tôi đà được lệnh không tiếp xúc với bất kỳ ai. Nhưng tôi cần được giúp đỡ. Tôi không biết ngài có thể kiểm tra một việc cho tôi được không?
– Chắc chắn là tôi có thể cố gắng. Anh muơn biết gì nào?
– Tôi cần biết liệu có một cái trại đâu đó ở Texas có tên là Ponderosa không?
– Như trong chương trình Bonanza ấy à?
– Vâng, thưa ngài.
– Tôi có thể làm được, Tôi sẽ liên lạc với anh thế nào?
– Thưa Đô đốc, tôi nghĩ tốt hơn là tôi sẽ gọi lại cho ngài.
– Phải. Cho tôi một hoặc hai tiếng nhé. Tôi sẽ giữ việc nầy chỉ có hai chúng ta biết thôi.
– Cảm ơn ngài.
Dường như Robert cảm thấy sự mệt mỏi đã biến mất trong giọng nói của ông già. Ít nhất thì ông cũng đã được yêu cầu làm một việc gì đó, cho dù rằng đó chỉ bình thường là việc tìm ra một cái trang trại.
Hai tiếng sau, Robert gọi lại cho Đô đốc Whittaker.
– Tôi đang đợi anh đây, – Vị Đô đốc nói. Trong giọng ông có vẻ hàl lòng. – Tôi đã có thông tin mà anh muốn.
– Và sao? – Robert nín thở.
– Có một cái trại Ponderosa ở Texas. Nó ở ngay phía ngoài Waco. Chủ của nó là một ông Dan Wayne nào đó.
Robert thở ra nhẹ nhõm.
– Cám ơn ngài rất nhiều, thưa đô đốc, – Robert nói. – Tôi nợ ngài một bữa tối khi nào tôi trở về.
– Robert, tôi mong ngóng dịp đó.
Cú điện thoại tiếp theo của Robert là gọi cho tướng Hilliard.
– Tôi đã phát hiện một nhân chứng khác ở Italia. Cha Patrini.
– Một tu sĩ à?
– Vâng. Ở Orvieto. Ông ta đang nằm viện, rất nặng. Tôi e là giới chức trách Italia sẽ không thể nói gì được với ông ta.
– Tôi sẽ chuyển lời ông. Cảm ơn, ông sĩ quan.
Hai phút sau, tướng Hilliard đã đang nói chuyện điện thoại với Janus.
– Tôi vừa nghe sĩ quan chi huy Bellamy báo cáo.
– Nhân chứng mới nhất là một tu sĩ. Một cha Patrini nảo đó ở Orvieto.
– Lo chuyện đó đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc SIFAR.
Không trích chép.
Một bản duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận thế.
5. Cha Patrini – Orvieto.
Hết điện.
Trụ sở SIFAR nằm trên đường Pineta, ở rìa ngoại ô phía nam thành Rome, trong một khu vực bao bọc bởi những nhà trại. Điều duy nhất có thể làm cho người qua đường chú ý tới toà nhà bằng đá trông đầy vẻ công nghiệp, bình thường kia với haỉ khối nhà lớn là bức tường cao vây quanh, trên có chăng dây thép gai và ở mỗi góc đều có một trạm gác. Nằm ẩn trong một khu quân sự, nó là một trong những cơ quan an ninh bí mật nhất trên thế giới mà người ta ít biết đến nhất. Có những tấm biển xung quanh khu nhà, trên ghi dòng chữ: “Không bước qua giới hạn nầy”.
Trong một căn phòng kiểu Spartan trên tầng hai của toà nhà chính, đại tá Francesco Cesar đang xem bức điện khẩn mà ông ta vừa nhận được. Viên đại tá ở trạc tuổi ngoài năm mươi, với một vóc người khoẻ mạnh và gương mặt rỗ, lì lợm. Ông ta đọc bức điện đến lần thứ ba.
Vậy là sau cùng Chiến dịch Ngày Tận thế đã đang diễn ra. Thật may là chúng ta đã chuẩn bị cho điều nầy. Cesar nghĩ. Ông ta nhìn xuống bức điện một lần nữa. Một tu sĩ.
Đã quá nửa đêm khi một bà xơ đi ngang qua phòng của các y tá trực đêm tại cái bệnh viện nhỏ ở Orvieto.
– Tôi đoán là bà ấy đang đến gặp bà Fillipi, – Cô y tá Tomasino nói.
– Hoặc bà ấy, hoặc ông già Rigano. Cả hai đều đang nguy kịch lắm rồi.
Bà xơ kia lặng lẽ đi vòng qua các góc nhà và bước thẳng vào phòng của vị tu sĩ. Ông ta đang ngủ vẻ yên ả, hai bàn tay gấp lại để trên ngực như thể đang cầu nguyện. Ánh trăng xuyên qua tấm rèm cửa, tạo thành một vệt sáng ngang mặt vị tu sĩ.
Bà xơ lấy từ dưới áo ra cái hộp nhỏ. Một cách thận trọng, bà ta lấy ra chuỗi hạt thuỷ tinh rất đẹp và để nó vào trong lòng hai bàn tay ông tu sĩ già.
Trong khi sửa lại những hạt thuỷ tinh cho ngay ngắn, bà ta dùng một hạt quệt nhanh lên ngón tay cái của ông. Một vết xước mờ xuất hiện. Bà xơ lấy ra một cái lọ bé xíu có đầu nhỏ giọt và cẩn thận nhỏ ba giọt lên chỗ vết xước kia.
Chỉ cần vài phút để cái độc tố chết người kia phát huy tác dụng. Bà xơ thở dài trong khi làm dấu thánh trước người đã chết. Rồi bà bỏ đi, lặng lẽ như lúc đến.
Điện khẩn.
Tối mật.
SIFAR gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
5. Cha Patrini – Orvielo đã bị thủ liêu.
Hết điện.
Frank Johnson được lựa chọn bởi lẽ ông ta đã từng là một lính Mũ nồi xanh ở Việt nam và được đồng đội của ông ta gọi là Máy giết người. Ông ta thích giết chóc. Có động cơ làm việc và rất thông minh.
– Hoàn toàn phù hợp với chúng ta, – Janus nói. – Tiếp xúc với ông ta một cách thận trọng. Tôi không muốn để mất người nầy.
Cuộc gặp đầu tiên diễn ra trong trại lính. Một đại uý đang nói chuyện với Frank Johnson.
– Ông không phiền muộn gì về chính phủ của chúng ta à? – Viên đại uý hỏi. – Nó được điều hành bởi một nhúm những kẻ yếu đuối đang phung phí nguồn tài lực. Đất nước nầy cần có sức mạnh hạt nhân, nhưng những chính trị gia quỷ tha ma bắt kia đang ngăn chặn chúng ta xây dựng những nhà máy mới. Chúng ta lệ thuộc bọn Ảrập khốn kiếp về dầu lửa và chính phủ sẽ cho phép khai thác dầu ở ngoài khơi bờ biển chúng ta chứ? Ồ, không. Họ lo lắng cho những đàn cá hơn là cho chúng ta. Ông có nghĩ gì về chuyện đó không?
– Tôi hiểu ý ông, – Frank Johnson nói.
– Tôi biết là ông hiểu bởi vì ông có đầu óc. Viên đại uý vừa nói vừa quan sát vẻ mặt Johnson. – Nếu như Quốc hội không làm gì để cứu vớt đất nước của chúng ta thì một số nào đó trong chúng ta sẽ phải làm gì đó.
Trông Frank Johnson có vẻ lúng túng.
– Một số trong chúng ta à?
– Phải. – Bây giờ thế là đủ rồi, viên đại uý nghĩ. – Chúng ta sẽ nói về chuyện đó sau.
Buổi nói chuyện sau đi vào việc cụ thể hơn.
– Có một nhóm những người yêu nước muốn bảo vệ thế giới của chúng ta, ông Frank ạ. Họ là những vị có quyền lực lớn. Họ đã thành lập một Uỷ ban. Uỷ ban nầy có thể phải vượt qua một số đạo luật nào đó để công việc của nó đạt hiệu quả, nhưng mà sau cùng, thì điều đó cũng đáng giá. Ông có quan tâm không?
– Tôi rất quan tâm. – Frank Johnson mỉm cười.
Đó là lúc bắt đầu. Buổi gặp sau diễn ra ở Ottawa, Canada, và Frank Johnson đã gặp một số thành viên trong Uỷ ban nầy… Họ đại diện cho những nhóm quyền lợi đầy thế lực ở chừng một chục nước.
– Chúng ta được tổ chức tốt, – một thành viên giải thích với Frank Johnson. – Chúng ta có một hệ thống chỉ huy nghiêm ngặt. Có các Phòng Tuyên truyền, Tuyển chọn, Chiến thuật, Liên lạc… và một Đội biệt kích.
Ông ta nói tiếp.
– Gần như tất cả các tổ chức tình báo trên thế giới là một bộ phận của nó.
– Ý ông nói là những người đứng đầu của…?
– Không, không phải là những người đứng đầu.
– Các cấp phó. Những người trực tiếp biết chuyện gì đang xảy ra, và bỉết rõ nguy cơ nào mà các nước đang gặp phải.
Các cuộc họp diễn ra ở mọi nơi trên thế giới – Thuỵ Sĩ, Marốc, Trung Quốc, – Và Johnson có mặt đầy đủ.
Đó là sáu tháng trước lúc đại tá Johnson gặp Janus.
Viên tướng đã cho triệu tập ông ta.
– Tôi mới nhận được nhưng báo cáo rất tốt đẹp về ông, đại tá.
– Tôi ưa thích công việc của mình, – Frank Johnson mỉm cười.
– Tôi cũng nghe như thế. Ông ở một vị trí rất thuận lợi để có thể giúp đỡ chúng tôi.
Frank Johnson ngồi thẳng người lên hơn.
– Tôi sẽ làm bất cứ việc gì có thể được.
– Tốt. Ở Trang trại, ông phụ trách việc giám sát đào tạo các điệp viên bí mật cho nhiều cơ quan khác nhau?
– Đúng thế.
– Và ông biết họ cùng những khả năng của họ.
– Rất tường tận.
– Điều tôi muốn ông làm là, – Janus nói, – tuyển chọn những người nào mà ông cảm thấy sẽ có ích nhất cho tổ chức của chúng ta. Chúng ta chỉ quan tâm đến những người tốt nhất.
– Đó là việc dễ dàng, – đại tá Johnson nói. – Không có vấn đề gì – Ông ta thoáng lưỡng lự. – Tôi băn khoăn…
– Gì vậy?
– Tôi có thể làm việc đó bằng tay trái của mình. Tôi thật sự muốn làm hơn thế, một việc gì đó lớn hơn. – Ông ta dướn mình về phía trước. – Tôi có nghe nói về Chiến dịch Ngày Tận thế. Đó mới chính là sân của tôi. Tôi muốn được tham gia, thưa ngài.
Janus ngồi nhìn ông ta hồi lâu. Rồi gật đầu.
– Được ông vào cuộc rồi đó.
– Cảm ơn ngài. – Johnson mỉm cười. – Ngài sẽ không phải ân hận gì.
Đại tá Frank Johnson sung sướng rời khỏi cuộc gặp.
Bây giờ thì ông ta thừa để cho họ thấy ông ta có thể làm được những gì.
Ngày thứ tám.
Waco. Texas.
Dan Wayne có một ngày không vui. Mà chính xác thì là một ngày vô cùng tệ hại. Ông vừa trở về từ toà án quận Waco, nơi ông phải đối mặt với các thủ tục về vỡ nợ. Vợ ông dan díu với tay bác sĩ trẻ của bà ta và đang làm thủ tục ly hôn ông với mục đích kiếm được một nữa tất cả những gì mà ông có (điều đó có nghĩa là không gì cả, như ông đã quả quyết với luật sư của bà ta). Và ông sẽ phải mất một trong những con bò đấu có hạng của mình. Dan Wayne cảm thấy số mệnh thật đen đủi. Ông đã không làm gì để đến nỗi phải chịu tất cả những chuyện nầy. Ông là một người chồng tốt, một chủ trại giỏi giang. Ông ngồi lặng trong phòng làm việc, ngẫm nghĩ về tương lai ảm đạm.
Dan Wayne là một người đàn ông kiêu hãnh. Ông biết tất cả những lời đùa cợt về những người Texas to mồm, nói khoác một tấc đến trời, nhưng ông vẫn thật sự cảm thấy mình có điều gì đó đáng hãnh diện.
Ông sinh ra ở Waco, trong một khu vực nông nghiệp giàu có của châu thổ sông Brazos. Waco là một thị trấn hiện đại, nhưng vẫn phảng phất hương vị của quá khứ, thời mà nó hình thành, tồn tại và phát triển trên năm cây trụ: gia súc, bông, ngô, trường học và văn hoá. Wayne yêu mến Waco bằng tất cả trái tim và khối óc, khi ông gặp vị tu sĩ trên chuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ kia, thì gần như ông đã nói suốt năm tiếng đồng hồ về cái thị trấn quê hương mình.
Vị tu sĩ nói với ông là muốn rèn luyện tiếng Anh, nhưng thực ra, khi nghĩ lại, thì hoá ra là gần như chỉ có một mình ông nói cả câu chuyện.
– Waco có tất cả mọi thứ, – Ông ta đã tâm sự với vị tu sĩ Thời tiết của chúng tôi thì tuyệt vời. Chúng tôi không cho phép trời quá nóng hay quá lạnh. Chúng tôi có hai mươi ba trường học trong vùng và có Đại học Baylor. Chúng tôi có bốn tờ báo, mười đài phát thanh và năm đài truyền hình. Chúng tôi có Phòng truyền thống mà ông phải choáng cả người. Ý tôi nói, ở đó là lịch sử. Nếu ông thích câu cá, thưa Cha, thì sông Brazos sẽ là nơi mà ông không thể quên. Rồi chúng tôi còn có một khu săn bắn và một trung tâm nghệ thuật lớn. Tôi cam đoan với ông, Waco là một trong những thành phố có một không hai trên thế giới. Ông phải đến thăm chúng tôi mới được.
Và vị tu sĩ già nhỏ bé đã mỉm cười, gật gật đầu, còn Dan Wayne nghi hoặc, không hiểu ông ta nghe được bao nhiêu tiếng Anh.
Dan Wayne đã thừa kế của người cha một ngàn mẫu đất trang trại, và đã làm đàn gia súc sinh sôi từ hai ngàn lên đến mười ngàn. Lại còn một con ngựa đua đáng giá cả một gia tài nữa. Vậy mà bọn khốn kiếp đang toan cướp đi tất cả của ông. Thị trường gia súc sụt xuống hoặc việc ông chậm trả tiền thế nợ đâu có phải là lỗi của ông. Các nhà băng đều hùa vào để làm hại ông và cơ hội duy nhất để ông ta tự cứu mình là tìm ra được người mua lại trang trại, thanh toán cho các chủ nợ và giữ lại một chút tiền lãi…
Wayne đã nghe có một người Thuỵ Sĩ giàu có muốn mua một trang trại ở Texas, và ông ta đã bay đi Zurich để gặp người đó. Nhưng té ra đó chỉ là trò thả mồi bắt bóng. Cái trang trại trong đầu cái thằng cha công tử bột đó là một hay hai mẫu đất với một cái vườn rau nhỏ xinh xinh.
Đó là lý do vì sao mà vô tình ông lại có mặt trên chuyến xe bus khi cái chuyện kỳ lạ kia xảy ra. Ông đã có đọc về chuyện đĩa bay, nhưng ông chưa bao giờ tin những chuyện đó cả. Giờ đây, nhờ Chúa, ông dứt khoát đã tin. Ngay sau khi ông trở về, ông gọi điện một chủ bút một tờ báo địa phương.
– Johnny, tôi mới nhìn thấy một cái đĩa bay thật sự với mấy xác người kỳ quặc chết trong đó.
– Thế hả? Ông có chụp tấm ảnh nào không thế, Dan?
– Không. Tôi có chụp mấy tấm, nhưng hỏng cả.
– Không sao. Chúng tôi sẽ cho một tay nhiếp ảnh tới đó. Nó đã trên trang trại của ông phải không?
– Ồ không. Thực ra là nó ở Thuỵ Sĩ kia.
Một thoáng im lặng.
– Ồ ra vậy, nếu như ông tình cờ nhìn thấy nó trên trang trại của ông, Dan, thì gọi lại cho tôi nhé.
– Khoan. Một thằng cha cũng nhìn thấy, nó sẽ gửi cho tôi một tấm ảnh mà…
Nhưng Johnny đã gác máy.
Thế đó.
Gần như là Wayne mong có một cuộc xâm lăng của những người từ hành tinh khác. Có thể họ sẽ giết sạch những tên chủ nợ khốn kiếp của ông. Ông nghe thấy có tiếng xe đang chạy vào và nhỏm dậy bước đến bên cửa sổ nhìn ra. Có vẻ là một gã ở miền Đông.
Có thể lại là một chủ nợ khác. Những ngày nầy họ ở đâu ra mà lắm thế cơ chứ.
Dan Wayne mở cửa trước.
– Xin chào.
– Ông là Daniel Wayne…
– Bạn bè gọi tôi là Dan. Tôi có thể làm gì cho ông thế?
Dan Wayne không hề như Robert đã hình dung; một mẫu người Texas vạm vỡ. Ông ta thanh mảnh, dáng quý tộc và điều bộ hơi rụt rè. Điều duy nhất thể hiện gốc gác của ông ta là giọng nói.
– Tôi không biết liệu có thể xin ông vài phút được không?
– Tôi cũng chỉ còn ngần ấy thời gian, – Wayne nói. – Nhân tiện xin được hỏi, ông không phải là một chủ nợ ư?
– Một chủ nợ ấy à? Không?
– Tốt. Xin mời vào.
Hai người cùng ngồi ở phòng khách. Đó là một căn phòng lớn với đồ đạc rất tiện nghi theo kiểu miền Tây.
– Ông có một chỗ ở đẹp quá, – Robert nói.
– Dạ. Tôi được sinh ra trong ngôi nhà nầy. Tôi có thể mời ông uống gì nhỉ? Một chút gì mát, được không?
– Không, cảm ơn. Tôi không khát.
– Xin mời ngồi.
– Robert ngồi xuống chiếc đi văng bọc da mềm mại.
– Ông gặp tôi có việc gì thế?
– Tôi được biết là ông có đi một tuyến du lịch bằng xe bus ở Thuỵ Sĩ hồi tuần trước?
– Đúng thế. Cô vợ cũ thuê người theo dõi tôi à? Ông không làm việc cho cô ta đấy chứ?
– Không, thưa ông.
– Ồ, – ông ta chợt hiểu ra. – Ông quan tâm đến cáí đĩa bay kia chứ gì. Chưa bao giờ tôi nhìn thấy gì khủng khiếp đến thế. Nó luôn thay đổi màu sắc. Và những sinh vật đã chết kia nữa. – Ông ta rùng mình. – Tôi vẫn nằm mê thấy nó.
– Ông Wayne, ông có thể nói với tôi bất kỳ điều gì về những người khách trên cùng chuyến xe đó được không?
– Xin lỗi. Tôi không thể giúp gì ông. Tôi đi có một mình.
– Tôi biết, nhưng ông có nói chuyện với những người khách khác chứ, phải không nào?
– Nói thật với ông, tôi rất nặng đầu nặng óc. Tôi đã chẳng chú ý mấy tới bất kỳ ai khác.
– Ông có nhớ bất kỳ chuyện gì về bất kỳ ai trong số họ không?
Day Wayne im lặng một lát.
– Ồ có một tu sĩ người Italia. Tôi có nói chuyện với ông ta một chút. Ông ta có vẻ là một người dễ mến. Tôi muốn nói để ông biết là cái đĩa bay kia thật sự làm cho ông ta choáng váng. Ông ấy cứ nói mãi về chuyện quỷ sứ.
– Ông có nói chuyện với ai khác nữa không?
Day Wayne nhún vai.
– Không hẳn… Chờ một phút. Tôi còn trò chuyện với ông chủ một nhà băng ở Canada. – Ông ta đưa lưỡi liếm môi. – Nói thật với ông, tôi đang có một chút khó khăn tài chính ở đây, với cái trang trại nầy. Có thể là tôi mất nó. Tôi ghét cái đám chủ nhà băng khốn kiếp kia. Bọn chúng toàn là những kẻ hút máu. Dù sao thì tôi nghĩ là cái thằng cha nầy có thể khác. Khi biết ông ta là chủ nhà băng, tôi đã nói chuyện với ông ta về việc thu xếp một kiểu tín dụng nào đó ở đây. Nhưng hắn cũng giống như tất cả bọn chúng thôi. Hắn không thể nào hờ hững hơn thế được.
– Ông nói hắn ta ở Canada à?
– Phải, Fort Smith, trên mãi vùng Các lãnh thổ Tây Bắc. Tôi e rằng đó là tất cả những gì tôi có thể nói với ông rồi đấy.
Robert cố giấu tâm trạng kích động của mình.
– Ông Wayne, xin cảm ơn ông, ông đã giúp ích rất nhiều. – Robert đứng dậy.
– Thế thôi à?
– Thế thôi.
– Ông có muốn ở lại dùng bữa tối không?
– Không, cảm ơn. Tôi phải lên đường thôi. Chúc may mắn trong chuyện trang trại nhé.
– Cảm ơn.
Fort Smith, Canada. Các lãnh thổ Tây Bắc.
Robert đợi cho đến khi tiếng Hilliard xuất hiện trên máy.
– Có ông sĩ quan hả?
– Tôi đã tìm được một nhân chứng khác. Dan Wayne. Ông ta là chủ trại Ponderosa, một trang trại bên ngoài Waco, Texas.
– Rất tốt. Tôi sẽ để cho cơ quan của chúng tôi ở Dallas nói chuyện với ông ta.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Phó giám đốc CIA:
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne – Waco.
Hết.
Tại Langley, Virginia, phó giám đốc Cục Tình báo Trung ương đang trầm ngâm xem bức điện số 6. Công việc thật trôi, chảy. Sĩ quan Bellamy đang làm việc tuyệt hảo. Janus đã đúng. Người đàn ông đó luôn luôn đúng. Và ông ta có quyền lực để những mong muốn của ta được thực hiện. Bao nhiêu quyền lực… Ông ta nhìn bức điện một lần nữa. Chuyện nầy sẽ không khó khăn gì. Rồi nhấn cái nút.
Hai người đàn ông đến trang trại bằng chiếc xe chở hàng màu xanh sẫm.
Họ đỗ xe ngoài sân, ra khỏi xe và thận trọng nhìn quanh. Ý nghĩ đầu tiên của Dan Wayne là họ đến để tịch biên cái trại. Ông ta mở cửa trước cho họ.
– Ông là Dan Wayne?
– Vâng. Tôi đây.
Ông ta chỉ mới nói được có thế.
Người đàn ông thứ hai đã bước vòng lại phía sau và cầm một cái bình da dùng để đựng rượu đánh mạnh vào đầu ông ta.
Một trong hai người đàn ông với vóc cao to hơn xốc ông chủ trại đã bất tỉnh lên vai và mang ông ta ra ngoài chuồng bò. Hai người đàn ông phớt lờ những con vật và đi thẳng vào phía trong cùng. Trong cái khoang đó là một con ngựa giống màu đen tuyệt đẹp.
Người đàn ông cao to nói:
– Đây chỗ nầy.
– Anh ta hạ Wayne xuống.
Người đàn ông thứ hai bước lại gần cửa khoang nhốt con ngựa, và đánh nó bằng cái gậy có điện. Nó lồng lên, hất tung hai chân sau. Một cú đánh mạnh hơn nữa vào mũi nó. Nó lồng lên điên cuồng, trong cái không gian chật chội, va đập vào bốn góc, răng nhe ra và lòng trắng mắt ngầu lên.
Nào, – người đàn ông cao to nhấc Dan lên và quăng ông ta vào trong cái khoang của con ngựa đực.
Họ đứng nhìn cái quang cảnh đẫm máu trong vài giây rồi hài lòng bỏ đi.
Điện khẩn.
Tối mật.
Phó giám đốc CIA gửi Phó giám đốc NSA.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
6. Daniel Wayne – Waco – Đã bị thủ tiêu.
Hết.