Âm Thanh Và Cuồng Nộ

Chương 12
Trước
image
Chương 13
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
Tiếp

Khi họ đi dưới nắng trưa chói chang, ngược con đường cát với những nhóm người tản mát đã lại chuyện trò râm ran, bà tiếp tục khóc rấm rứt, không buồn nói chuyện.

“Ông ấy đúng là một nhà thuyết giáo, hay thật. Lúc đầu trông chẳng có vẻ gì như thế, vậy mà”

“Ông ấy thấy được quyền lực và vinh quang”

“Vâng, đúng thế. Ông ấy thấy cái đó. Ông ấy thấy cái đó tận mắt”.

Dilsey lặng thinh, gương mặt bà không chút rung động khi những dòng lệ chảy dài trên hai gò má hóp và nhăn nheo, bà ngẩng cao đầu bước đi, chẳng buồn lau nước mắt.

“Sao mammy khóc mãi thế?” Frony nói. “Người ta nhìn kìa. Mình sắp đi qua chỗ dân trắng đấy”.

“Tao đã thấy từ đầu đến cuối” Dilsey nói. “Mày cứ mặc kệ tao”.

“Từ đầu đến cuối cái gì?” Frony nói.

“Mặc kệ tao” Dilsey nói. “Tao đã thấy cái bắt đầu, và bây giờ tao thấy cái kết thúc”.

Tuy nhiên, trước khi họ ra tới phố, bà dừng lại và kéo vạt váy chấm khô mắt. Rồi họ đi tiếp. Ben lêu nghêu đi bên cạnh Dilsey, nhìn Luster múa may phía trước, cây dù trong tay và chiếc mũ rơm mới nghiêng nghêng ngang tàng trong ánh nắng, như một con chó ngây ngô to gộc nhìn một con chó nhỏ tinh khôn. Họ tới cổng và đi vào. Tức thì Ben lại bật khóc thút thít và cả bọn đứng lại một lúc nhìn lối đi qua sân, ngôi nhà tróc lở với cánh cổng mục nát.

“Hôm nay trên ấy có chuyện gì thế?” Frony nói. “Chắc có chuyện gì”.

“Chả có gì cả” Dilsey nói. “Mày lo việc mày còn việc của dân trắng để mặc họ”.

“Chắc có chuyện gì” Frony nói. “Mới sáng ngày ra đã nghe thấy tiếng cậu ấy. Dẫu sao cũng chẳng phải việc mình”.

“Tôi cũng biết là chuyện gì” Luster nói.

“Mày biết cũng chả để làm gì” Dilsey nói. “Mày không nghe Frony nói chẳng phải việc mình hay sao? Mày đưa Ben ra đàng sau và giữ cậu ấy yên đến khi tao làm xong bữa trưa”.

“Con biết cô Quentin ở chỗ nào kia” Luster nói.

“Biết thì giữ lấy” Dilsey nói. “Bao giờ Jason cần mày dạy khôn, tao sẽ cho mày hay. Bây giờ đi ra đàng sau chơi hết đi”.

“Mammy có biết chuyện gì sẽ xảy ra khi người ta bắt đâu chơi bóng ở đàng ấy không?” Luster nói.

“Người ta chưa chơi ngay đâu. Đến lúc ấy thì T.P. Đã về để đánh xe đưa cậu ấy đi chơi. Này, mày đưa cái mũ mới ấy cho tao”.

Luster đưa bà chiếc mũ mới rồi nó và Ben đi ra sân sau. Ben vẫn thút thít, nhưng chỉ khe khẽ. Dilsey và Frony đi về căn lều. Một lát sau Dilsey chui ra, bà lại mặc chiếc áo vải in hoa bạc phếch, và đi tới nhà bếp. Lửa đã tắt ngấm. Trong nhà không một tiếng động. Bà đeo tạp dề và đi lên gác. Đâu đâu cũng lặng ngắt. Phòng của Quentin vẫn nguyên như lúc nãy. Bà bước vào nhặt cái quần lót lên và nhét chiếc tấtvào ngăn kéo rồi đóng lại. Cửa phòng bà Compson đã khép. Dilsey đứng cạnh cửa một lúc, lắng tai nghe. Rồi bà mở ra và bước vào, giữa mùi long não nồng nàn tràn ngập. Những tấm rèm đã hạ xuống, căn phòng tranh tối tranh sáng, và ở giường thoạt tiên bà nghĩ là bà Compson đã ngủ và bà định đóng cửa lại thì nghe tiếng nói.

“Hả?” bà Compson nói. “Cái gì thế?”

“Tôi đây” Dilsey nói. “Cô có cần gì không?”

Bà Compson không trả lời. Một lúc sau, đầu không hề nhúc nhích, bà nói “”Jason đâu rồi?”

“Cậu ấy chưa về” Dilsey nói. “Cô cần gì không?”

Bà Compson không nói gì cả. Giống như những người vốn mệt mỏi ốm yếu, khi cuối cùng phải đối mặt với một tai họa không sao tránh khỏi, không biết bà đã đào đâu ra một thứ sức mạnh và lòng quả cảm. Trng trường hợp của bà đó là sự khẳng định bất di bất dịch khi nhìn nhận sự kiện mơ hồ kia. “Ờ” ba nói tiếp “chị tìm thấy không?”

“Tìm cái gì? cô nói gì kia?”

“Cái thư. Ít nhất nó cũng biết nghĩ để lại một lá thư chứ. Ngay thằng Quentin cũng còn làm thế”.

“Cô nói chuyện gì vậy?” Dilsey nói. “Cô biết là nó làm sao nào? tôi bảo là thế nào nó cũng về đây trước buổi tối”.

“Chuyện vớ vẩn” bà Compson nói. “Cái máu nó thế. Giống cô dì chú bác nó. Hay là mẹ nó. Tôi không biết còn có cái gì tồi tệ hơn. Tôi cũng chẳng bận tâm nữa”.

“Cô cứ nói nhăng nhít thế để làm gì?” Dilsey nói. “Nó làm như vậy để được cái gì chứ?”

“Tôi không biết. Vậy sao thằng Quentin lại làm như vậy? trời đất ơi sao nó lại làm như thế kia chứ? lẽ nào chỉ để làm nhục làm khổ tôi. Chúa nào đi nữa cũng không tha thứ điều đó. Tôi là một người đàng hoàng. Chị không tin là con cháu tôi lại như thế, nó tôi tin”.

“Cô cứ đợi xem như thế nào” Dilsey nói. “Đến đêm nó lại về, rồi lại vào giường ngủ thôi mà”. Bà Compson im lặng. Miếng vải tẩm long não nằm trên trán bà. Chiếc áo đen rủ xuống chân giường. Dilsey đứng để tay lên quả đấm cửa.

“Nào” bà Compson nói. “Chị còn muốn gì nữa? chị có đi sửa soạn bữa trưa cho Jason với Benjy không?”

“Jason chưa về” Dilsey nói. “Tôi sẽ làm ngay đây. Cô không cần gì nữa chứ? chai nước của cô còn nóng không?”

“Chị đưa cho tôi cuốn Kinh Thánh của tôi “.

“Tôi đã đưa cho cô sáng nay, trước lúc tôi đi rồi mà”.

“Chị đặt ở mép giường. Chị định để nó ở đấy đến bao giờ?”

Dilsey tới bên giường mò mẫm trong bóng tối dưới thành giường và tìm thấy quỷên Kinh Thánh nằm úp mặt xuống đó. Bà vuốt phẳng những trang quăn góc và lại đặt ở cạnh giường. Bà Compson vẫn nhắm mắt. Tóc bà và cái gối cùng một màu, bên dưới mảnh khăn tẩm thuốc đắp trán trông bà giống như một dì phước già đang cầu nguyện. “Đừng để nó ở đó” bà nói, mắt vẫn nhắm nghiền. “Chỗ ấy lúc nãy chị đã để. Chị định bắt tôi phải ra khỏi giường để nhặt nữa hay sao?”

Dilsey cầm quyển sách lên và để vào khoảng giường trống. “Sao mà cô đọc được?” bà nói. “Cô có muốn tôi kéo rèm lên một chút không?”

“Không. Cứ để nguyên như thế. Đi đi và lo sửa soạn cái gì cho Jason ăn”.

Dilsey đi ra. Bà đóng cửa và quay lại nhà bếp. Lò gần như lạnh ngắt. Trong lúc bà đứng đó, chiếc đồng hồ phía trên chạn gõ mười tiếng. “Một giờ” bà nói lớn. “Jason vẫn chưa về. Mình đã thấy cái đầu tiên và cái cuối cùng” bà nói, nhìn vào bếp lò lạnh lẽo. “Mình đã thấy cái đầu tiên và cái cuối cùng”. Bà dọn ra bàn mấy món ăn nguội. Vừa đi đi lại lại bà vừa hát một bản thánh ca. Bà hát lại hai câu đầu rồi bắt vào đoạn kết. Bà sắp xếp bàn ăn rồi lại đi ra cửa gọi Luster, và một lúc sau Luster và Ben vào. Ben vẫn khóc ti tỉ, như cho riêng mình.

“Cậu ấy chẳng lúc nào hết nhè” Luster nói.

“Cả hai đứa lại ăn đi” Dilsey nói. “Jason không về ăn trưa đâu”. Chúng ngồi xuống bàn. Thức ăn đặc thì Ben có thể tự xúc ăn tử tế ngon lành, nhưng bây giờ ngay cả với đồ nguội trước mặt hắn, Dilsey cũng buộc một chiếc khăn ăn quanh cổ hắn. Hắn và Luster ăn. Dilsey loay hoay trong gian bếp, hát hai câu đầu của bài thánh tướng mà bà còn nhớ được. “Cả hai đứa cứ tiếp tục ăn đi” bà nói “Jason vẫn chưa về”.

Lúc ấy hắn đã ở xa cả hai chục dặm. Rời khỏi nhà, hắn phóng xe ra thị trấn, vượt qua những nhóm người đi lễ nhàn tản và những hồi chuông gióng giả vang trong bầu không khí rạn vỡ. Hắn băng qua quảng trường vắng tanh và rẽ vào một phố hẹp đột nhiên yên tĩnh hẳn, rồi dừng xe trước một ngôi nhà gỗ và theo một lối đi viền hoa dẫn tới hàng hiên. Bên trong khung cửa che rèm có tiếng người đang nói chuyện. Khi hắn đưa tay định gõ cửa thì nghe tiếng chân bước, hắn bỏ tay xuống, một người đàn ông to lớn mặc quần vải đen áo sơ mi hồ cứng không có cổ cồn ra mở cửa. ông ta có mái tóc màu xám thép rậm rạp bù rối và đôi mắt tròn xoe long lanh như mắt trẻ con. Ông cầm tay Jason vừa kéo vào nhà vừa lắc.

“Vào đây đã” ông nói. “Vào đây đã”.

“Bác đã sẵn sàng để đi chưa?” Jason nói.

“vào đây” ông ta nói, nắm khuỷu tay hắn kéo vào trong căn phòng có một người đàn ông và một người đàn bà đang ngồi. “Anh biết chồng của Myrtle không nhỉ? Vermon à, đây là Jason Compson”.

“Vâng” Jason nói. Hắn cũng chẳng buồn nhìn người đàn ông trong khi viên cảnh sát trưởng quận lôi một chiếc ghế ngang qua phòng, người đàn ông nói:

“Chúng tôi ra ngoài để các vị nói chuyện. Đi nào, Myrtle!”

“Không, không” viên cảnh sát nói. “Ai ngồi yên đấy. Tôi nghĩ chắc không có gì nghiêm trọng chứ, Jason? Ngồi xuống đi!”

“Tôi sẽ nói với bác trên đường đi” Jason nói. “Bác cứ đội mũ và mặc áo khoác vào”.

“Chúng tôi ra ngoài kia” người đàn ông nói và đứng dậy.

“Anh cứ ngồi đấy” viên cảnh sát nói. “Tôi và Jason sẽ ra ngoài hiên”.

“Bác lấy mũ với áo khoác đi” Jason nói. “Chúng đã chuồn được mười hai tiếng đồng hồ rồi”. Viên cảnh sát dẫn hắn ra ngoài hiên nhà. Một người đàn ông và một người đàn bà đi qua nói chuyện với ông. Ông trả lời bằng một cử chỉ duyên dáng thân mật. Chuông vẫn vang rền, từ phía khu nhà có tên là Hang Da Đen. “Lấy mũ đi, bác cảnh sát trưởng” Jason nói. Viên cảnh sát kéo hai chiếc ghế.

“Ngồi xuống đây và kể tôi nghe chuyện lôi thôi thế nào”.

“Tôi đã nói với bác qua điện thoại rồi mà” Jason nói và vẫn đứng. “Tôi làm như thế để tiết kiệm thời gian. Chả lẽ tôi phải viện đến luật pháp để buộc bác làm cái bổn phận mà bác đã tuyên thệ nữa sao?”

“Anh cứ ngồi xuống và kể chuyện đó cho tôi” viên cảnh sát nói. “Tôi sẽ chú ý nghe”.

“Chú ý cái quái quỷ gì” Jason nói. “Bác gọi như thế là chú ý nghe tôi đấy hả?”

“Anh đang làm mất thì giờ của cả hai chúng ta” viên cảnh sát nói. “Anh cứ ngồi xuống và kể chuyện đó cho tôi nghe”.

Jason kể với ông ta, cái ý tưởng về tổn thương và bất lực nuôi dưỡng giọng nói của hắn vì thế một lúc sau hắn đã quên cả sự vội vã trong cơn bực dọc chất chứa của những lời tự bào chữa và của nỗi sỉ nhục. Viên cảnh sát bình thản nghe hắn với cặp mắt lạnh lùng long lanh.

“Nhưng anh đâu biết là họ làm điều đó” ông nói. “Anh chỉ nghĩ là như thế”.

“KHông biết?” Jason nói. “Khi tôi mất cả hai ngày trời khốn kiếp để lùng sục nó khắp đường ngang ngõ tắt, cố lôi nó ra khỏi thằng kia, sau khi tôi đã đe nó là tôi sẽ làm gì nếu tôi bắt gặp nó với thằng kia, vậy mà bác bảo là tôi không biết rằng cái con đ”

“Này, thôi” viên cảnh sát nói. “Thế được rồi. Thế cũng đủ rồi đấy”. ông nhìn sang bên kia đường, hai tay đút túi.

“Và bây giờ tôi đến bác, một viên chức được uỷ quyền thực thi pháp luật” Jason nói.

“Tuần này gánh hát ở Mottson” viên cảnh sát nói.

“Phải” Jason nói “Giá như tôi tìm được một nhân viên công lực hiếm hoi nào quan tâm bảo vệ những người đã bầu ông ta vào chính quyền, giờ này chắc tôi cũng ở đó rồi”. Hắn lặp lại câu chuyện, hằn học kết luận, như thể rút ra được một khoái cảm thực sự từ nỗi sỉ nhục và bất lực của mình. Viên cảnh sát như không để tâm lắng nghe gì hết.

“Jason” ông nói. “Anh làm cái gì mà giấu những ba ngàn đô la ở trong nhà?”

“Cái gì?” Jason nói. “Tôi để tiền của tôi ở đâu là việc của tôi. Việc của bác là giúp tôi lấy lại chỗ tiền đó”.

“Bà cụ anh có biết anh giấu nhiều tiền đến thế không?”

“Này bác” Jason nói “nhà tôi bị mất trộm. Tôi biết kẻ nào làm điều đó và tôi biết chúng ở đâu. Tôi đến bác, một viên chức được uỷ quyền thực thi pháp luật, và tôi yêu cầu bác lần nữa, bác có định cố gắng giúp tôi thu hồi tài sản của tôi hay không?”

“Nếu anh tóm được chúng anh sẽ làm gì con bé?”

“KHông gì cả” Jason nói. “Không một tí gì. Tôi sẽ không đụng đến nó. Cái con đĩ đã khiến cho tôi mất một việc làm, một cơ hội để tôi tiến thân, đã giết cha tôi và làm mẹ tôi mòn mỏi từng ngày, làm tên tuổi tôi thành trò cười trong tỉnh. Tôi sẽ không làm gì nó hết” hắn nói. “Không một tí gì”.

“Anh đã đẩy con bé đến chỗ phải trốn đi, Jason à” viên cảnh sát nói.

“Tôi điều khiển gia đình tôi thế nào đâu phải việc của bác” Jason nói. “Bác có định giúp tôi hay không nào?”

“Anh đã đẩy con bé đến chỗ phải bỏ cửa bỏ nhà” viên cảnh sát nói. “Và tôi có chút ngờ vực rằng số tiền đó thuộc về người nào nhưng tôi nghĩ mình không biết chắc”.

Jason đứng đó, chậm chạp bóp vành chiếc mũ cầm ở tay. Hắn nói bình thản. “Vậy là bác không định cố gắng bắt chúng cho tôi?”

“Đó không hề là việc của tôi, Jason à. Nếu anh có một chứng cớ thật sự nào đó, tôi đành phải hành động. Bằng không tôi chẳng hơi đâu, đó không hề là việc của tôi”.

“Câu trả lời của bác là như thế phải không?” Jason nói. “Nghĩ kỹ đi!”

“Đúng thế đấy, Jason à”.

“Được” Jason nói. Hắn đội mũ lên. “Bác sẽ hối tiếc về chuyện này. Tôi không phải không có ai giúp đỡ. Đây cũng không phải nước Nga để bất cứ kẻ nào đeo cái phù hiệu con con bằng sắt cũng có thể bất chấp luật pháp”. Hắn đi xuống bậc thềm, chui vào trong xe và nổ máy. Viên cảnh sát nhìn hắn lái xe, vòng lại và chạy ngang qua ngôi nhà về phía thị trấn.

Tiếng chuông lại vang rền, cao tít trong nắng trưa thành từng dải âm thanh hỗn độn và chói sáng. Hắn dừng ở trạm xăng để bơm bánh xe và đổ xăng.

“Ông định đi xa à?” gã da đen hỏi hắn. Hắn không trả lời. “Dù sao cũng có vẻ sẽ đi xa” gã da đen nói.

“Xa cái con khỉ” Jason nói. “Mười hai giờ thế nào cũng mưa như dưới địa ngục”. Hắn nhìn trời, nghĩ đến cơn mưa, đến những đoạn đường đất sét trơn trượt, hắn sa lầy nơi nào đó cách thị trấn hàng dặm đường. Hắn nghĩ đến điều ấy với một cảm giác đắc thắng, nào là hắn sẽ mất toi bữa trưa, nào là bây giờ mới khởi hành và để thoả nỗi sốt ruột, hắn sẽ ở đúng khoảng cách xa nhất giữa hai thị trấn vào buổi trưa. Dường như đối với hắn, trong việc này, hoàn cảnh đã ngáng trở hắn, nên hắn bảo gã da đen:

“Anh làm trò quỷ gì vậy? người ta thuê anh giữ xe tôi ở đây càng lâu càng tốt phải không?”

“Cái bánh xe này chả còn tí hơi nào cả” gã da đen nói.

“Vậy thì tháo cái của nợ ấy ra và đưa tôi cái ruột bánh xe kia” Jason nói.

“Lên rồi đây này” gã da đen nói và đứng dậy. “Ông có thể đi được rồi”.

Jason chui vào xe, nổ máy và lái đi. Hắn vào số hai, động cơ phụt hơi hổn hển, hắn rồ máy, dận lút ga và kéo dây van khí một cách hung hãn. “Lại sắp mưa” hắn nói “chỉ nửa đường là sẽ mưa như trút”. Và hắn phóng xe ra khỏi tiếng chuông và ra khỏi thị trấn, tưởng tượng mình đang lội bì bõm trong bùn, đi lùng một cỗ ngựa. “Lũ chó chết đứa nào đứa nấy đi hết nhà thờ” hắn hình dung cuối cùng hắn tìm thấy một ngôi nhà thờ và lấy đi cỗ ngựa như thế nào, rồi chủ của nó chạy ra, hô hoán lên và hắn đánh anh ta gục xuống. “Tao là Jason Compson đây. Xem mày có cản nổi tao không. Xem mày có bầu ra được một thằng nào cản nổi tao không?” hắn nói, hình dung mình bước vào toà án với một tốp linh và lôi cỏ viên cảnh sát ra.

“Thử nghĩ xem lão ta lại ngồi ì ra đó khoanh tay mà nhìn mình mất việc làm. Mình sẽ cho lão ta biết mất việc là như thế nào”. Hắn tuyệt nhiên không nghĩ gì đến cháu gái hắn, ngay cả đến cái giá trị võ đoán của đồng tiền. Cả tiền bạc lẫn cháu gái hắn đối với hắn đều chưa từng óc thực thể hay cá tính gì suốt mươi năm qua, cả hai thứ đó chỉ đơn thuần biểu trưng cho cái việc làm ở ngân hàng mà hắn bị cướp đoạt trước khi hắn có được.

Trời đã hửng, những bóp rợp bay qua từng đám như ở mặt trái, và đối với hắn dường như cái việc trời trong trẻo hơn là một đòn quỷ quyệt mà kẻ địch tung ra, một mặt trận mới mở mà hắn thì đầy mình những thương tích cũ. Từng lúc hắn vượt qua các giáo đường, những ngôi nhà gỗ mộc với những gác chuông lợp tôn, xung quanh là những cỗ ngựa bị buộc và những chiếc xe hơi tồi tàn, và đối với hắn dường như mỗi thứ là một trạm gác nơi những toán hậu quân của Hoàn Cảnh ẩn nấp rình rập sau lưng. “Cả ngươi nữa đồ khốn kiếp” hắn nói “xem ngươi có cản nổi ta không” hắn tưởng tượng ra hắn và tốp lính của hắn dẫn độ viên cảnh sát bị còng tay tới kéo cổ Đấng Toàn Năng từ trên ngai của Gã xuống nếu cần, tưởng tượng ra các đạo quân của cả thiên đàng và địa ngục hỗn chiến, hắn lao xe qua đó và cuối cùng tóm được con cháu gái đào tẩu của hắn.

Gió thổi từ hướng đông nam. Nó tạt đều đều trên má hắn. Hắn cảm thấy làn gió như vươn dài ra và đâm xuyên qua sọ hắn, rồi một linh cảm vụt trở lại hắn đạp thắng dừng xe và ngồi chết sững. Rồi hắn đưa tay lên cổ và bật chửi thề, và hắn ngồi đó, lẩm bẩm rủa bằng giọng khản đặc. Mỗi khi phải lái xe đi đâu thật lâu hắn thường dự phòng một chiếc khăn tay tẩm long não và buộc quanh cổ khi ra khỏi thị trấn để hít mùi hương, nên hắn ra khỏi xe nhấc nệm xe lên xem có còn sót chiếc khăn nào ở đó không. Hắn nhìn bên dưới cả hai chiếc nệm và lại đứng một lúc, chửi thề, thấy mình bị cười nhạo bởi chính cái đắc thắng của mình. Hắn nhắm mắt, tựa người vào cửa xe. Hắn có thể quay lại lấy long não bỏ quên ở nhà, hoặc có thể đi tiếp, trường hợp nào thì đầu hắn cũng đau muốn vỡ, tuy nhiên ở nhà ngày chủ nhật chắc là có thể tìm được long não, còn đi tiếp thì chưa chắc. Nhưng nếu quay lại, hắn sẽ tới Mottson muộn mất một tiếng rưỡi đồng hồ. “Có lẽ mình sẽ đi thật chậm” hắn nói. “Mình có thể đi thật chậm, nghĩ một chuyện gì khác”.

Hắn vào xe nổ máy.”Mình sẽ nghĩ đến chuyện khác”, hắn nói và hắn nghĩ tới Lorraine. Hắn tưởng tượng hắn ở trong giường với nàng, chỉ nằm cạnh nàng thôi, cầu xin nàng giúp đỡ, rồi hắn lại nghĩ đến món tiền, rằng hắn đã thua trí một con đàn bà, một con ranh. Giá như là một thằng đàn ông trộm tiền của hắn cho cam. Lại còn bị trộm món tiền mà hắn coi là để đền bù cho cái việc làm bị mất, món tiền mà hắn kiếm được qua bao nhiêu nỗ lực và mạo hiểm, do chính biểu trưng cccái việc làm bị mất ấy, và tệ hại hơn hết, do một con điếm ranh. Hắn lái xe đi, kéo một góc áo khoác lên che mắt trước ngọn gió thổi đều đều.

Hắn như nhìn thấy những thế lực đối địch của số phận hắn cùng với ý chí của hắn song hành vùn vụt, tới một giao điểm không sao cưỡng được, hắn trở nên khôn ngoan. Mình không được sai lầm ngớ ngẩn, hắn tự nhủ. Hoặc đúng khác không, có thể thôi, và hắn phải làm đúng. Hắn tin rằng cả hai đứa chỉ thoạt thấy hắn là nhận ra ngay, còn hắn chắc sẽ nhận ra con bé trước trừ phi thằng kia vẫn còn đeo cà vạt đỏ. Và chỉ nguyên việc hắn phải phụ thuộc vào chiếc cà vạt đỏ ấy cũng dường như là kết toán của cái tai hoạ lơ lửng, hắn có thể ngửi thấy, cảm thấy điều đó ở cơn nhức nhối giần giật trên đầu hắn.

Hắn leo lên ngọn đồi cuối cùng. Khói ngập thung lũng, những mái nhà và một vài gác chuông nhô trên rặng cây. Hắn lái xe xuống đồi và vào thị trấn, chầm chậm, bụng bảo dạ là phải cẩn thận, đầu tiên là tìm xem lều bạt dựng ở đâu. Bây giờ hắn nhìn cũng không rõ nữa, nhưng hắn biết là nếu cứ đâm bổ đi kiếm cái gì giải quyết cơn nhức đầu thì sẽ hỏng bét. Ở một trạm xăng, người ta bảo hắn là lều bạt chưa dựng, nhưng xe cộ của gánh hát đậu ngay cạnh bến xe. Hắn lái xe tới đó.

Hai chiếc xe ngủ Pullman sơn vẽ loè loẹt đậu trong con hẻm. Chưa vội ra khỏi xe, hắn thám sát chúng. Hắn cố thở thật nhẹ để máu đỡ giần giật trong đầu. Rồi hắn ra ngoài và men theo bức tường bên, canh chừng những chiếc xe. Có mấy bộ quần áo phơi bên ngoài cửa sổ, ướt sũng và nhăn nhúm, như vừa giặt xong. Trên mặt đất cạnh bậc lên xuống của một chiếc xe có ba cái ghế bố. Nhưng tuyệt nhiên hắn không thấy một dấu hiệu nào của sự sống đến khi một người đàn ông đeo chiếc tạp dề bẩn thỉu đi ra cửa xe và vung tay hắt xoong nước rửa bát, nắng lấp lánh trên thành xoong, rồi lại trở vào trong xe.

Bây giờ mình phải bất thần chộp lấy lão ta, không để lão báo động cho chúng, hắn nghĩ. Hắn chẳng hề nghĩ là có thể chúng không có ở trong xe. Nếu chúng lại không ở đó, nếu toàn bộ kết quả lại không xoay quanh việc hoặc hắn thấy chúng trước hoặc chúng thấy hắn trước, thì thật là phản lại toàn bộ tự nhiên và mâu thuẫn với tiến trình tổng thể của các sự kiện. Và hơn thế nữa, hắn phải thấy chúng trước, lấy lại số tiền, rồi chúng làm trò gì cũng chẳng quan trọng chút nào đối với hắn, nếu không thì toàn thế giới phải biết rằng hắn, Jason Compson, đã bị mất trộm bởi vì Quentin, cháu gái hắn, một con đĩ.

Hắn lại thám sát, rồi hắn đi tới chiếc xe, bước lên bậc, nhanh nhẹn và khẽ khàng, và dừng ở cửa. Ngăn bếp tối mò, sặc mùi thức ăn thiu. Người đàn ông là một đám trắng mờ đang hát bằng một giọng nam cao gãy vỡ và run rẩy. Một lão già, hắn nghĩ, lại chẳng to con bằng mình. Hắn vào trong xe và người kia ngước nhìn lên.

“Hử?” người kia nói và ngưng hát.

“Chúng nó đâu?” Jason nói. “Nói mau. Trong xe ngủ hả?”

“Ai ở đâu?” người kia nói.

“Đừng có nói láo với tôi” Jason nói. Hắn mò mẫm xông tới trong tối tăm lộn xộn.

“Cái gì thế?” người kia nói. “Anh bảo ai nói láo?” và khi Jason túm được vai lão, lão la lên “Coi chừng đấy, anh bạn!”

“Đừng có nói láo” Jason nói. “Chúng ở đâu?”

“Làm sao, đồ con hoang này” người kia nói. Cánh tay lão gầy gò yếu ớt trong bàn tay Jason. Lão cố giằng ra, đoạn lão quay người lại và quờ quạng ngã lên chiếc bàn bừa bộn phía sau.

“Nói đi” Jason nói “chúng ở đâu?”

“Tao sẽ bảo mày chúng ở đâu” người kia thét lên để tao tìm con dao phay của tao”.

“Này” Jason nói, cố ghì người kia “tôi chỉ hỏi lão một câu thôi”.

“Đồ con hoang” người kia thét lên, quờ quạng trên bàn. Jason cố ghì lão trong cả hai cánh tay, cố chế ngự cơn cuồng nộ yếu đuối của lão. Cơ thể lão đã già nua ốm yếu như thế, lão lại cứ khăng khăng một cách cố chấp khiến Jason lần đầu tiên nhìn thấy rõ ràng sáng tỏ cái tai họ mà hắn đang lao vào.

“Thôi nào!” hắn nói. “Này! Này! Tôi sẽ ra. Khoan chút đã, rồi tôi ra”.

“Bảo tao nói láo à?” người kia vẫn gào. “Buông tao ra. Buông tao ra một phút thôi. Tao sẽ cho mày biết”.

Jason ghì chặt lão, nháo nhác nhìn quanh. Ngoài kia trời hửng nắng, mau lẹ sáng ngời và thoáng đãng, và hắn nghĩ thiên hạ sắp nhàn nhã trở về nhà với bữa trưa chủ nhật, tiệc tùng vui vẻ, còn hắn thì đang cố ghì lão già nhỏ thó cố chấp rồ dại này mà hắn không dám buông ra dù chỉ một lúc để quay lưng và chạy.

“Lão có yên trời lát để tôi ra không?” hắn nói. “Có yên không?” nhưng người kia vẫn giãy giụa, và Jason buông một tayra và nện lên đầu lão. Một quả đấm vụng về, hấp tấp và yếu ớt, nhưng người kia gục xuống tức khắc làm nồi niêu xoong chảo rơi loảng xoảng trên sàn. Jason đứng bên trên lão, hổn hển, nghe ngóng. Rồi hắn quay đầu chạy ra ngoài xe. Ra tới cửa, hắn kìm mình, chậm chạp bước xuống và đứng lại ở đó. Hơi thở của hắn cứ thoát ra ha ha ha, và hắn đứng đó cố nén xuống, đưa mắt ngó ngược ngó xuôi, khi có tiếng xô đẩy sau lưng, hắn quay phắt lại thấy lão già loắt choắt lóng ngóng và hung hăng nhảy bổ ra từ gian ngoài, tay vung một lưỡi rìu nhỏ han gỉ

Hắn tóm lấy lưỡi rìu, không cảm thấy cú đập nhưng hắn biết mình đang ngã xuống và nghĩ thôi thế là hết, hắn tin chắc mình sắp chết và khi có cái gì nện mạnh vào sau gáy, hắn nghĩ lão nện mình vào chỗ đó như thế nào nhỉ? Có lẽ lão nện mình từ lâu rồi kia, hắn nghĩ, và bây giờ mình mới cảm thấy, và hắn lại nghĩ. Mau lên. Mau lên. Cho xong đi, và rồi một ước muốn điên cuồng không chịu chết đã chụp lấy hắn và hắn chống cự, còn nghe thấy lão già gào thét và chửi rủa bằng cái giọng gãy vụn của lão.

Hắn vẫn chống cự khi có người kéo hắn đứng dậy, nhưng người ấy giữ chặt hắn và hắn thôi.

“Tôi chảy nhiều máu không?” hắn nói. “Sau gáy tôi. Có chảy máu không?” hắn vẫn nói khi cảm thấy đang bị lôi đi vội vã, nghe giọng the thé hung hăng của lão già văng vẳng sau lưng. “Nhìn đầu tôi xem” hắn nói. “Khoan, tôi”

“Khoan cái con khỉ” người đang giữ hắn nói. “Con ong nọc loắt choắt khốn kiếp ấy sẽ giết anh. Cứ đi đi. Anh không sao đâu”.

“Lão đánh tôi” Jason nói. “Tôi có chảy máu không”

“Đi đi mà” người kia nói. Anh ta dẫn Jason đi vòng qua góc bến xe, đến một bãi đất trống có một chiếc xe tốc hành đang đậu, cỏ mọc lởm chởm trong một ô đất viền những luống hoa cứng ngắc và một tấm biển bằng đèn điện: Hãy để đến Mottson, lỗ hổng ở chữ mắt được thay bằng hình vẽ một con mắt người có lắp bóng điện. Người kia buông hắn ra.

“Bây giờ” anh ta nói “Anh đi khỏi đây và đừng trở lại. Anh định làm gì vậy? muốn tự tử à?”

“Tôi đang tìm hai người” Jason nói. “Tôi chỉ hỏi lão xem chúng ở đâu thôi”.

“Anh tìm ai?”

“Một đứa con gái” Jason nói “và một thằng con trai. Hôm qua ở Jefferson nó thắt một cái cà vạt đỏ. Nó ở gánh hát này. Chúng ăn trộm của tôi”.

“À” người kai nói. “Ra là anh. Này, chúng không ở đây đâu”.

“Tôi nghĩ vậy” Jason nói. Hắn đứng tựa vào bức tường, đưa tay sờ gáy rồi nhìn lòng bàn tay. “Tôi tưởng mình bị chảy máu” hắn nói “Tôi tưởng lão lấy rìu chém tôi”.

“Anh đập đầu vào lan can” người kia nói. “Anh nên đi đi. Chúng không ở đây đâu”.

“Phải. Lão ta cũng bảo là chúng không ở đây. Tôi tưởng lão nói dối”.

“Anh có nghĩ là tôi nói dối không?” người kia nói.

“Không” Jason nói. “Tôi biết chúng không ở đây”.

“Tôi đã bảo chúng xéo đâu thì xéo, cả hai đứa” người kia nói. “Tôi không có những loại như thế trong đoàn tôi. Tôi chỉ đạo một đoàn diễn đứng đắn với một dàn diễn viên đứng đắn”.

“Phải” Jason nói. “Ông không biết chúng đi đâu à?”

“Không. Và tôi cũng không muốn biết. Không một thành viên nào trong đoàn diễn của tôi lại có thể dung nạp một thứ đồ bỏ như thế. Anh là – anh con bé?”

“Không” Jason nói. “Chẳng thành vấn đề. Tôi chỉ muốn gặp chúng. Ông chắc lão ta không chém trúng tôi chứ? Chắc là không chảy máu”.

“Sẽ có máu nếu tôi không đến kịp. Bây giờ anh rời khỏi đây đi. Lão con hoang loắt choắt ấy sẽ giết anh. Xe anh kia à?”

“Phải”.

“Thôi, anh lên xe về Jefferson đi. Nếu anh tìm thấy chúng, chắc sẽ không phải trong đoàn tôi. Tôi chỉ đạo một đoàn diễn đứng đắn. Anh bảo là chúng ăn trộm của anh à?”

“Không” Jason nói. “Chẳng có chuyện gì đâu.” Hắn đi tới chiếc xe và chui vào. Mình phải làm gì đây? hắn nghĩ. Rồi hắn nhớ lại. Hắn nổ máy và lái chầm chậm ngược phố đến khi tìm thấy một hiệu thuốc. Cửa khoá. Hắn đứng một lúc, tay đặt trên quả đấm cửa và đầu hơi cúi xuống. Rồi hắn quay lại và một lát sau có người tới hắn hỏi xem có hiệu thuốc nào mở cửa hay không, nhưng không có. Rồi hắn hỏi khi nào xe lửa mạn bắc chạy, và người kia bảo hắn là lúc hai giờ ba mươi phút. Hắn băng qua vỉa hè, chui vào xe và ngồi đó. Một lát sau có hai thằng bé da đen đi qua. Hắn gọi chúng.

“Có đứa nào trong chúng mày biết lái xe không?”

“Dạ biết”

“Lái xe đưa tao về Jefferson mày lấy bao nhiêu?”

Chúng nhìn nhau, thì thầm.

“Tao trả một đô la” Jason nói.

Chúng lại thì thầm. “Không đi xa thế đâu” một đứa nói.

“Chúng mày bận việc gì?”

“Mày đi được không?” đứa này nói.

“Tao không đi được đâu” đứa kia nói “Sao mày không lái xe cho ông ấy đến đó? Mày có bận việc gì đâu?”

“Có, tao bận”.

Chúng lại thì thầm và cười.

“Tao cho chúng mày hai đô la” Jason nói. “Đứa nào cũng được”.

“Cháu cũng không đi được” đứa đầu tiên nói.

“Vậy thôi” Jason nói. “Đi đi”

Hắn ngồi đó một lúc lâu. Hắn nghe đồng hồ gõ nửa giờ, rồi thiên hạ bắt đầu đi qua, diện những bộ đồ Chủ nhật và lễ Phục sinh. Một vài người nhìn hắn khi đi ngang, nhìn con người ngồi im lìm sau tay lái chiếc xe nhỏ, với đời sống vô hình đan kết xung quanh hắn như một chiếc tất đã sờn rách.

Một lát sau một gã da đen mặc quần yếm đi tới.

“Ông có phải là người muốn đi Jefferson không?” gã nói.

“Phải” Jason nói. “Anh lấy tôi bao nhiêu?”

“Bốn đô la”.

“Tôi trả anh hai”.

“Dưới bốn không đi được” người trong xe ngồi lặng lẽ, cũng không buồn nhìn gã. Gã da đen nói “Ông có cần tôi hay không?”

“Thôi được” Jason nói. “Lên xe đi”.

Hắn dịch sang bên và gã da đen ngồi vào sau tay lái. Jason nhắm mắt. Mình có thể kiêm cái gì để chữa ở Jefferson, hắn tự nhủ, thả lỏng mình theo nhịp xóc, mình có thể kiếm cái gì ở đó. Chiếc xe chạy dọc các phố xá, nơi thiên hạ đang thư thả trở về nhà với bữa trưa Chủ nhật, và ra khỏi thị trấn. Hắn nghĩ đến điều đó. Hắn không nghĩ đến nhà, nơi Ben và Luster đang ngồi ăn đồ nguội ở bàn bếp. Một cái gì đó – sự ẩn hiện của tai hoạ, đe doạ, trong bất kỳ hiểm nguy thường trực nào – giúp hắn quên đi Jefferson như một nơi chốn hắn chưa hề thấy trước đó, nơi mà cuộc đời hắn lại phải tiếp tục.

Khi Ben và Luster ăn xong Dilsey đuổi chúng ra ngoài. “Xem mày có giữ yên cậu ấy được hơn bốn tiếng không nào. T. P. Sắp về đấy”.

“Vâng ạ” Luster nói. Dilsey ăn bữa trưa và dọn dẹp bếp núc. Rồi bà tới chân cầu thang lắng nghe, nhưng không thấy động tĩnh gì. Bà trở lại đi qua bếp ra cửa ngoài và dừng ở bậc thềm. Không thấy Ben và Luster đâu cả, nhưng lúc đứng đó bà lại nghe thấy tiếng tăng tăng uể oải từ phía cửa hầm rượu và bà tới cửa hầm nhìn xuống thấy cái cảnh ban sáng lặp lại.

“Anh ta làm đúng như vậy” Luster nói. Nó ngắm nghía lưỡi cưa bất động với một vẻ chán ngán đầy hy vọng. “Tôi không tìm được đúng cái để đánh vào nó” nó nói.

“Và mày sẽ chẳng bao giờ tìm được ở đây đâu” Dilsey nói. “Mày đưa cậu ấy ra ngoài nắng kia. Chúng mày chui xuống nền đất ẩm thế này đến bị sưng phổi mất thôi”.

Bà đứng đợi và nhìn chúng đi qua sân tới khóm cây tuyết tùng cạnh hàng rào. Rồi bà đi về lều.

“Này, cậu đừng có mà giở trò nhé” Luster nói. “Hôm nay tôi cũng đủ khổ sở với cậu rồi”. Có một cái võng làm bằng những chiếc đai thùng gỗ bện với dây thừng. Luster nằm xuống đung đưa, nhưng ben cứ cắm đầu đi thẳng chẳng biết đi đâu. Hắn lại bắt đầu khóc thút thít. “Nin đi nào”, Luster nói “Tôi đánh đòn bây giờ”. Nó lại nằm xuống đung đưa. Ben đã đứng lại nhưng Luster vẫn nghe thấy hắn thút thít. “Cậu có nín đi không nào?” Luster nói. Nó đứng dậy đi theo và đến chỗ Ben đang ngồi xổm trước một mô đất nhỏ. Ở mỗi đầu mô đất chôn một cái chai rỗng bằng thuỷ tinh xanh trước kia để đựng hoá chất. Trong một chai có cây hoa cà đã héo. Ben ngồi xổm trước cây hoa, rền rĩ, một âm thanh chậm rãi, mơ hồ. Hắn vừa rền rĩ vừa ngó quanh tìm một cành cây cắm vào cái chai kia. “Sao cậu không im đi?” Luster nói. “Cậu muốn tôi làm cái gì cho cậu khóc một thể không? giả sử tôi làm thế này này” Nó quỳ xuống và bất thần nhổ phắt cái chai lên giấu sau lưng. Ben ngừng rền rĩ. Hắn ngồi xổm, nhìn vào cái hố nhỏ nơi chôn chai, rồi khi hắn hít vào đầy lồng ngực, Luster lại đưa cái chai ra. “Nín!” nó rít lên. “Cậu đừng giở trò rống lên nữa. Thôi đi. Đây này. Thấy không? Đây. Ngồi chỗ này là lại nhè. Đi nào, đi xem họ có đánh bóng đàng kia không”. Nó nắm cánh tay Ben và kéo hắn dậy rồi chúng đi tới hàng rào đứng sát bên nhau, ghé mắt nhòm qua bụi cây kim ngân chưa nở hoa.

“Đấy” Luster nói. “Có người đến đấy. Thấy không?”

Chúng xem bốn người chơi trên thảm cỏ xanh và họ đi ra, rồi đến chỗ giao bóng và vụt. Ben nhìn, rền rĩ và chảy dãi. Khi bốn người kia đi, nó bám theo dọc hàng rào, lúc lắc đầu và khóc thút thít. Một người nói:

“Này, caddie. Xách túi đi”.

“Nín đi, Benjy” Luster nói, nhưng Ben cứ lóng ngóng chạy, bám lấy hàng rào, rên rỉ bằng cái giọng khàn khàn vô vọng của hắn. Người kia đánh quả bóng rồi đi, Ben chạy theo anh ta đến chỗ hàng rào ngoặt vuông góc và hắn cứ bám lấy hàng rào nhìn theo người kia đi khuất.

“Có nín đi không nào?” Luster nói.”Nín ngay không?”

Nó lắc cánh tay Ben. Ben bám lấy hàng rào rền rĩ khàn khàn từng đợt. “Cậu không thôi hả?” Luster nói. “Hay cậu lại muốn?” Ben nhìn chằm chằm qua hàng rào. “Được rồi” Luster nói. “Cậu muốn có cớ để rống hả?” nó nhìn qua vai về phía nhà. Rồi nó thì thào “Caddy! Rống lên nào. Caddy! Caddy! Caddy!”

Một lát sau, ở quãng ngừng chậm chạp giữa tiếng rống của Ben, Luster nghe thấy Dilsey gọi. Nó kéo cánh tay Ben và chúng đi qua sân về phía bà.

“Con đã nói với mammy là cậu ấy sẽ nhè mà” Luster nói.

“Đồ khốn!” Dilsey nói. “Mày làm gì cậu ấy hả?”

“Con chẳng làm gì cả. Con đã nói với mammy là khi người ta bắt đầu chơi bóng thế nào cậu ấy cũng nhè mà”.

“Chúng mày lại đây” Dilsey nói. “Nín đi, Benjy. Nín đi nào!” Nhưng hắn không nín. Cả ba đi thật nhanh qua sân tới lều và chui vào. “Chạy đi lấy chiếc dép ấy đi” Dilsey nói. “Đừng có làm rộn cô Cahline nghe không. Nếu cô hỏi gì thì bảo là tao trông cậu ấy. Đi đi nào. Mày làm đúng như thế được chứ?” Luster đi ra. Dilsey đưa Ben tới giường, kéo hắn ngồi xuống cạnh bà và ôm hắn lắc lư, lau cái miệng dớt dãi của hắn bằng vạt váy của mình. “Nín đi nào” bà nói và xoa đầu hắn. “Nín đi. Dilsey đây mà”. Nhưng hắn vẫn rống chậm rãi, hèn mọn, không có nước mắt, cái tiếng kêu trầm trầm vô vọng của tất cả những khốn khổ âm thầm dưới ánh mặt trời.

Luster trở lại, cầm một chiếc dép xa tanh trắng. Giờ đây nó đã ngả vàng, vừa gãy vừa bẩn, và khi đặt nó vào bàn tay Ben, hắn nín một lát. Rồi hắn lại gào lên và giọng hắn bắt đầu ré lên.

“Mày xem có thấy T.P. ở đâu không?” Dilsey nói.

“Hôm qua cậu bảo là hôm nay cậu ấy đi St John. Bảo là bốn giờ mới về”.

Dilsey lắc lư và xoa đầu Ben.

“Lâu quá, ôi lạy Chúa” bà nói.”Lâu quá”.

“Con đánh cái xe ấy được mà, mammy” Luster nói.

“Để mà chết cả hai đứa à” Dilsey nói. “Mày thì quỷ quái lắm. Tao biết mày cũng đủ khôn ngoan. Nhưng có điều tao không tin được mày. Nín đi nào!” bà nói. “Nín đi! Nín đi!”

“Con không lam gì đâu” Luster nói. “Con vẫn đánh xe cùng với T.P. Mà” Dilsey lắc lư, ôm Ben. “Cô Cahline bảo là nếu mammy không dỗ được cậu ấy nín, cô sẽ dậy để xuống nhà làm việc ấy”.

“Nín đi, cưng” Dilsey nói và xoa đầu Ben. “Luster con à” bà nói. “Con thương mammy già yếu của con mà đánh xe cho cẩn thận, được chứ?”

“Vâng ạ” Luster nói. “Con đánh xe y như T.P. Được mà”.

Dilsey xoa đầu Ben, lắc lư. “Tôi đã làm hết sức mình” bà nói. “Chúa biết điều ấy. Lấy xe đi nào” bà nói và đứng dậy. Luster chạy biến. Ben cầm chiếc dép, khóc. “Nín đi nào, Luster đi lấy xe ngựa đưa cưng đến nghĩa trang. Không thể để cưng đi đầu trần được đâu”, bà nói. Bà đi tới ngăn chứa đồ được che bằng một tấm màn vải hoa treo ở góc phòng và lấy ra chiếc mũ dạ cũ của bà. “Thiên hạ đâu biết là nhà mình sa sút đến thế này” bà nói. “Dẫu sao cưng cũng là con của Chúa. Và tôi cũng là con Ngài. Từ xưa, ơn Chúa. Nào”. Bà đội mũ và cài khuy áo khoác cho hắn. Hắn khóc thút thít đều đều. Bà cất chiếc dép và họ đi ra. Luster tới, đánh chiếc xe cà tàng đã xệ một bên với một con ngựa trắng già nua.

“Mày sẽ cẩn thận chứ, Luster?” bà nói.

“Vâng” Luster nói. Bà đỡ Ben lên ghế sau. Hắn đã thôi khóc, nhưng bây giờ lại bắt đầu thút thít.

“Cây hoa của cậu ấy” Luster nói. “Khoan đã, để con lấy cho cậu ấy một cây”.

“Cứ ngồi đấy” Dilsey nói. Bà tới và nắm lấy dây hàm thiếc. “Nào, lấy cho cậu ấy một cây hoa, mau lên!” Luster chạy vòng qua nhà tới vườn. Nó trở lại với một bông thuỷ tiên.

“Bông này gãy rồi,” Dilsey nói “Sao không lấy cho cậu ấy một bông tử tế?”

“Con chỉ thấy mỗi một bông này thôi” Luster nói. “Mammy hái hết cả hôm thứ Sáu để trang hoàng nhà thờ rồi còn gì. Khoan đã, để con sửa lại bông này”. Thế là trong lúc Dilsey giữ ngựa, Luster lấy một cành cây nhỏ và hai mẩu dây để làm nẹp cho cây hoa rồi đưa cho Ben. Đoạn nó leo lên xe và cầm dây cương. Dilsey vẫn giữ cương.

“Mày có biết đường không?” bà nói. “Đi ngược phố, vòng qua quảng trường, tới nghĩa trang, rồi đi thẳng về nhà”.

“Vâng ạ” Luster nói. “Tế lên, Queenie!”

“Mày cẩn thận đấy, nghe không?”

“Vâng ạ” Dilsey buông cương.

“Ấy, mammy” Luster nói.

“Đưa đây tao” Dilsey nói, đến sát bánh xe. Luster miễn cưỡng đưa cho bà.

“Làm sao thúc được con Queenie chạy bây giờ?”

“Mày khỏi lo chuyện đó” Dilsey nói. “Con Queenie nó biết hơn cả mày là nó sẽ đi đâu. Mày chỉ việc ngồi đấy mà giữ chặt dây cương. Mày biết đường chứ?”

“Vâng ạ. Vẫn con đường Chủ nhật nào T.P. Cũng đi mà”.

“Vậy thì Chủ nhật này mày cứ thế mà làm”.

“Hẳn thế rồi, con đã chả đánh xe cho T. P. Hơn trăm lần rồi hay sao?”

“Vậy cứ thế mà làm” Dilsey nói. “Đi nào. Mày mà làm ngã Benjy, thằng nhãi đen kia, không biết tao sẽ làm gì đây. Mày cùng một giuộc với bọn đeo xiềng, nhưng tao sẽ tống mày đến đấy cho bọn đeo xiềng chúng trị mày”.

“Vâng ạ” Luster nói. “Tế lên Queenie!”

Nó giật dây cương, đập lên cái lưng rộng của con Queenie và chiếc xe lảo đảo chuyển bánh.

“Này, Luster!” Dilsey nói.

“Tế lên, thế!” Luster nói. Nó lại giật dây cương. Với những tiếng ầm ầm dưới lòng đất, con Queenie chạy nước kiệu chầm chậm xuống ngõ và đi vào phố, nơi Luster thúc nó vào một nước chạy trông như lơ lửng và ngã dài về phía trước.

Ben thôi rền rĩ. Hắn ngồi giữa ghế, cầm ngay ngắn cây hoa đã sửa trong bàn tay, đôi mắt bình thản khôn tả. Ngay trước hắn, cái đầu hình viên đạn của Luster chốc chốc lại ngoái lại cho đến khi ngôi nhà khuất dạng nó mới dừng xe bên lề đường và trong lúc Ben nhìn nó, nó tụt xuống và bẻ một nhánh cây mềm ở bờ dậu. Con Queenie cúi đầu tìm gặm cỏ đến khi Luster leo lên xe lôi đầu nó lên và thúc nó chạy tiếp, rồi Luster khuỳnh tay, nó vung cao nhánh cây và sợi dây cương lấy điệu bộ ngang tàng chẳng ăn nhập gì với tiếng gõ móng lộp cộp khoan thai của con Queenie và nhịp thở trầm trầm như đàn đại phong cầm của con vật đệm trong tiếng vó. Những chiếc xe hơi vượt qua chúng, người đi bộ cũng vậy, có cả một bọn choai choai da đen:

“”Luster kìa. Mày đi đâu đấy, Luster? Đến nghĩa trang hả?”

“Hây” Luster nói. “Không phải chúng mày cũng đến nghĩa trang đấy hay sao? Tế lên, voi!”

Chúng đến gần quảng trường chỗ tượng đài anh lính Liên bang ngước cặp mắt trống rỗng dưới bàn tay bằng đá nhìn đăm đăm vào mây gió. Luster cao hứng lấy nhánh cây quất cho con Queenie bình thản một roi, và đưa mắt nhìn quanh quảng trường. “Xe cậu Jason đàng kia” nó nói rồi lại trông chừng một bọn choai choai da đen khác. “Cho tụi nó thấy mình chơi oách cỡ nào nghe không, Benjy?” nó nói. “Cậu bảo sao?” nó quay lại nhìn. Ben ngồi, nắm chặt cây hoa trong lòng bàn tay, ánh mắt trống rỗng và bình yên. Luster lại quất con Queenie và lái nó sang phía bên trái tượng đài.

Bỗng Ben ngồi sững trong một quãng lặng hoàn toàn. Rồi hắn rống lên. Rống lên liên tục, giọng hắn cao vút, thỉnh thoảng mới ngừng để thở. Có cái gì hơn cả sự kinh hoàng trong giọng hắn, đó là sự khủng khiếp, choáng váng, là nỗi thống khổ mù loà, câm nín; chỉ là một tiếng kêu, và Luster đảo lia lịa cặp mắt trắng dã. “Trời đất ơi” nó nói. “Nín! Nín! Trời đất ơi!” nó lại quay cuồng và lấy nhánh cây quất con Queenie. Nhánh cây gãy nó vứt đi và khi giọng Ben vút lên với cường độ không tin nổi, Luster túm chặt dây cương và ngoài người ra đàng trước thì Jason nhảy bổ qua quảng trường và leo lên bậc xe.

Bằng cú tát trái, hắn gạt Luster sang một bên, giằng lấy dây cương và giật con Queenie hết bên phải lại bên trái rồi chập đôi sợi dây cương lại và quất ngang mông ngựa. Hắn quất liên tiếp thúc nó phi nước đại, trong lúc nỗi thống khổ khàn khàn của Ben gầm lên, và lái nó sang phía bên phải tượng đài. Rồi hắn đấm lên đầu Luster.

“Mày không biết làm trò gì hơn là đưa nó sang phía bên trái à?” hắn nói. Hắn với tay ra đàng sau đánh Ben, làm cây hoa lại gãy gập. “Câm mồm!” hắn nói. “Câm mồm!” hắn giật con Queenie đứng lại và nhảy xuống. “Xéo ngay về nhà với nó. Mày còn đưa nó qua cái cổng ấy lần nữa, tao sẽ giết mày!”

“Dạ vâng ạ!” Luster nói. Nó cầm cương và lấy đoạn cuối của dây cương quất con Queenie. “Ngồi dậy! Ngồi dậy, Benjy, vì Chúa!”

Giọng Ben gầm mãi lên. Con Queenie lại chạy, bốn vó lại bắt đầu lộp cộp đều đặn và Ben nín bặt. Luster ngoái cổ nhìn thật nhanh qua vai, rồi đánh xe đi. Cây hoa gãy gục trên nắm tay Ben và đôi mắt hắn lại trống rỗng xanh ngắt và bình thản khi những gờ mái và mặt tiền nhà lại một lần nữa lướt qua êm ái từ trái sang phải, cột và cây, cửa sổ và lối ngõ, rồi bảng hiệu, vật nào chỗ nấy.

Trước
image
Chương 13
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!