Bác Sĩ Zhivago

Phần 11 – Đoàn quân ở rừng
Trước
image
Chương 11
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
Tiếp

Zhivago bị du kích cầm tù đã hơn một năm. Cảnh mất tự do của chàng có giới hạn rất không rõ ràng. Nơi giam cầm chàng không có tường rào bao quanh. Chàng không hề bị canh chừng hay bị theo dõi. Đoàn quân du kích luôn luôn đi chuyển. Zhivago theo họ đến khắp nơi. Quân du kích không hề tách biệt, không hề ngăn cách với dân chúng. Họ lẫn vào với dân, trà trộn trong dân, mỗi khi kéo qua các thôn xóm và thị trấn. Dường như cả sự độc lập giam cầm ấy đều không hề có.

Bác sĩ vẫn được tự do, có điều là chàng chẳng biết cách tận dụng nó. Sự phụ thuộc, sự cầm tù của chàng không khác gì những hình thức câu thúc khác trong cuộc sống, những hình thức cũng thường vô hình, vô cảm và có vẻ không thực, mà chỉ là ảo giác, hư cấu như thế. Mặc dù vắng bóng xiềng xích, gông cùm và giám thi, song bác sĩ vẫn buộc phải phục vụ tình cảnh mất tự do, dù bề ngoài có vẻ tưởng tượng, của mình.

Ba lần liều trốn đều bị bắt lại. Chàng không bị hình phạt gì cả, nhưng đúng là đùa với lửa. Chàng đành từ bỏ ý định chạy trốn.

Chàng được lòng vị chỉ huy du kích là Liveri Miculisyn. Anh ta ưu đãi, cho chàng ngủ chung lều và thích bầu bạn với chàng. Chàng vất vả chịu đựng sự thân mật bị ép buộc này.

Thời kỳ này quân du kích gần như liên tục dồn sang phía Đông. Đôi khi sự chuyển dịch ấy là một bộ phận của kế hoạch tổng công kích nhằm quét quân đội Konchak ra khỏi miền Tây Sibiri. Đôi khi, nếu bọn bạch vệ thọc vào sau lưng quân du kích và định bao vây họ, thì cuộc di chuyển vẫn về hướng Đông mang tính chất một cuộc rút lui. Trong một thời gian dài Zhivago không hiểu gì về điều bí ẩn ấy.

Các thị trấn và làng xóm ven đường cái quan, nơi quân du kích đi ngang qua hoặc xuyên qua, rất là khác nhau, tùy theo sự may rủi của thời vận quân sự, – Là làng Đỏ hoặc làng Trắng. Nhìn bề ngoài, thực khó mà biết chính quyền bên trong nằm trong tay ai. Khi đoàn quân kéo qua các thị trấn và làng xóm ấy, chính đoàn quân dài dằng dặc đó trở thành lực lượng chủ yếu ở đây.

Các ngôi nhà ở cả hai bên đường tựa hồ co lại và lún thấp xuống đất, trong khi các tốp kỵ binh, ngựa, đại bác và những đơn vị bộ binh đông đảo, áo capốt cuộn tròn khoác trên ba lô sau lưng, đạp bùn mà đi, tưởng chừng cao lớn hơn cả các mái nhà Một lần, trong một thị trấn như thế, bác sĩ tiếp nhận một chiến lợi phẩm là một kho thuốc Anh mà một tốp sĩ quan bạch vệ dưới quyền tướng Kappen phải bỏ lại trong lúc rút lui.

Ngày hôm ấy mưa và ấm, có hai màu. Tất cả những chỗ có ánh sáng chiếu vào dường như có màu trắng, còn tất cả phần còn lại là màu đen. Trong tâm hồn cũng vậy, chỉ có cái bóng tranh tối tranh sáng, không có sự chuyển tiếp hoặc pha sắc khả dĩ làm dịu nhẹ nỗi lòng.

Con đường bị giày xéo bởi những cuộc chuyển quân thường xuyên đã biến thành một dòng bùn đen. Người ta chỉ có thể qua đường mà không lấm chân ở một vài nơi cách nhau rất xa, sau khi mất công đi vòng vèo hàng quãng dài. Trong hoàn cảnh đó, ở trấn Paginsck, bác sĩ Zhivago đã gặp lại người bạn đồng hành trên xe lửa ngày trước là Pelaghen Chiagunova.

Chị ta nhận ra chàng trước. Chàng phải mất một phút mới nhớ lại được khuôn mặt quen quen của người phụ nữ đang đăm đăm nhìn chàng từ phía bên kia đường, như từ bờ đối diện của một dòng kênh, cái nhìn ngụ ý nước đôi, rằng chị ta quyết chào hỏi chàng nếu chàng nhận ra chị ta, bằng không, chị ta cũng sẵn sàng quay đi. Chàng đã nhận ra. Cùng với hình ảnh toa tàu đông nghẹt những tốp người bị cưỡng bức ra phục vụ chiến trường, những người lính áp giải, và người phụ nữ có bím tóc đuôi sam hất ra trước ngực, chàng chợt thấy hiện lên hình ảnh những người thân trong gia đình chàng, những chi tiết của cuộc tản cư cách đây hai năm dồn dập hiện về rõ mồn một, những khuôn mặt thân yêu mà chàng vẫn nhớ thương da diết đến não lòng chợt hiện ra sống động trước mắt chàng.

Chàng hất hàm ra hiệu để Chiagunova cùng chàng đi ngược lên phố một quãng nữa mới có thể qua đường nhờ có một hàng đá xếp nhô trên mặt bùn. Chàng tới chỗ đó, sang gặp và chào hỏi chị ta.

Chiagunova kể cho chàng nhiều chuyện. Sau khi nhắc chàng nhớ đến cậu thiếu niên Vasia ngây thơ, bị trưng dụng bất hợp pháp vào quân đoàn lao công chiến trường và ở cùng một toa với họ, chị ta tả lại cuộc sống của mình ở nhà của mẹ Vasia tại làng Veretenich: Tại đó, chị ta cảm thấy rất thoải mái.

Nhưng dân làng không thích trong làng có người đàn bà xa lạ từ nơi khác đến. Họ lên án chị ta, làm như chị ta có quan hệ gần gũi nọ kia với Vasia. Chị ta đành ra di để tránh các hậu quả xấu hơn. Chị đến ở với bà chị Olga Galudina tại thành phố Crestovozdvigiensck. Nghe đồn có người trông thấy Pritylev ở Paginsck này, nên chị ta tới đây. Hoá ra là họ đồn sai. Còn chị ta tìm được việc làm nên đã ở lại đây.

Trong khi đó tai hoạ xảy ra với những người thân yêu của chị. Chị được tin làng Veretenich bị triệt hạ vì không tllân lệnh trưng thu lương thực thừa. Nhà của mẹ con Vasia bị cháy và có một người trong gia đình bị chết. Nhà bà chị Galudina ở Crestovozdvigiensck thì bị tịch thu gia sản. Ông anh rể của chị bị bỏ tù hoặc bị xử bắn. Thằng cháu thì mất tích. Thời gian đầu bà chị Galudina lâm cảnh đói khát khổ sở, nhưng bây giờ đang đi ở cho một gia đình nông dân có họ hàng xa tại xóm thợ Dvonasck.

Tình cờ Chiagunova lại làm công trong cái hiệu thuốc Paginsck mà bác sĩ Zhivago có nhiệm vụ tịch thu tài sản. Việc tịch thu này sẽ đẩy tất cả những người sống nhờ vào tiệm thuốc, trong đó có chị, tới cảnh kiệt quệ. Nhưng bác sĩ Zhivago đâu có quyền bãi lệnh. Chiagunova đã chứng kiến việc tịch thu kho thuốc ấy Chiếc xe của Zhivago được đưa vào sân sau của hiệu thuốc đến tận cửa kho. Các chai thuốc, các thùng thuốc được buộc bằng cành liễu nhỏ, bị khuân từ trong kho ra chất lên xe.

Các nhân viên của tiệm thuốc buồn bã nhìn cảnh ấy và tâm trạng của họ dường như lây sang cả con ngựa gày còm, ghẻ lở của tiệm thuốc đang đứng trong tàu ngựa ngó ra. Ngày mưa sắp tàn. Trời quang được một chút. Mặt trời đang lặn hé ra sau những đám mây đen bao bọc, trong chốc lát, ném những tia nắng màu đồng đỏ sậm xuống sân nhuộm vàng mấy vũng phân ngựa nhão nhoẹt một cách đáng sợ. Nước phân quá đậm đặc, gió không lay động nổi vũng nước ấy. Nhưng đám nước mưa tràn ngập ngoài đường cái thì gợn sông lấp loáng với những tia nắng đỏ bầm.

Đoàn quân vẫn đi, đi mãi hai bên mép đường, vòng tránh các vũng nước sâu như ao hồ. Trong số thuốc men tịch thu được có cả một hộp cocain, thứ ma tuý mà vị chỉ huy du kích luôn đem ra hít ngửi ít lâu nay.

Bác sĩ bận lút đầu với công việc của đoàn quân ở rừng. Mùa đông thì bệnh sốt phát ban, mùa hè thì bệnh kiết ly, cộng với số thương binh ngày một nhiều do chiến sự gia tăng.

Mặc dù gặp thất bại và chủ yếu phải rút lui, hàng ngũ du kích quân không ngừng được bổ sung bởi những người dân mới vùng dậy ở các vùng đoàn quân đi qua và bởi những người rời bỏ hàng ngũ kẻ thù chạy sang với du kích.

Trong vòng một năm rưỡi Zhivago ở với họ, số lượng du kích quân đã tăng lên mười lần, thực sự bằng con số mà Liveri bịa ra để khoe khoang tại cuộc họp ban tham mưu bí mật ở thành phố Crestovozdvigiensck hôm nào.

Zhivago có thêm mấy y tá quân y mới ra trường, đủ trình độ cần thiết, phụ giúp chàng. Về điều trị thương binh, cánh tay phải của chàng là Kereni Laiot, đảng viên cộng sản Hungary, bác sĩ quân y bị áo bắt làm tù binh, mà ở trại người ta gọi là đồng chí Laiusi, và viên y sĩ người Khovat, tên là Anghelia, cũng là tù binh của áo. Với Laiot, Zhivago trao đổi bằng tiếng Đức, người thứ hai vốn gốc dân Slavơ miền Bancăng, thì hiểu lõm bõm đôi chút tiếng Nga.

Theo công ước quốc tế về Hội chữ thập đỏ, các bác sĩ quân y và nhân viên các đơn vị cứu thương không được quyền võ trang và tham chiến. Nhưng một lần bác sĩ Zhivago đã buộc phải vi phạm quy chế ấy, trái với ý muốn của chàng. Chàng bị đụng một trận đánh nhỏ giữa cánh đồng, phải chia sẻ số phận với các chiến hữu và phải bắn để tự vệ.

Đơn vị du kích nằm rải thành phòng tuyến ở bìa rừng. Zhivago nằm cạnh anh chiến sĩ điện báo. Phía sau lưng đơn vị là rừng tai ga, đằng trước mặt là một bãi trống khá rộng và trơ trụi nơi bọn bạch vệ đang xông lên tiến công.

Chúng đã tới rất gần, Zhivago nhìn rõ mặt từng người. Đó là những cậu thiếu niên, thanh niên trẻ măng xuất thân từ các tầng lớp không phải quân nhân của xã hội thủ đô, và những người nhiều tuổi hơn bị động viên từ lực lượng dự bị. Nhưng sự hăng hái được khởi xướng từ bọn trẻ, những sinh viên năm thứ nhất các học sinh trường trung học hệ tám năm mới ghi tên làm quân tình nguyện.

Bác sĩ không quen biết tên nào cả, nhưng khuôn mặt của một nửa số lính ấy khá quen thuộc đối với chàng. Một số tên gợi chàng nhớ đến các bạn học ngày xưa. Không chừng chúng nó là con em của họ cũng nên? Những đứa khác tựa hồ chàng thường gặp giữa đám đông trong nhà hát hay ngoài đường phố hồi xưa. Những khuôn mặt biểu cảm, hấp dẫn của chúng, chàng cảm thấy gần gũi, gần như của những người cùng giới với chàng.

Ý thức nghĩa vụ, theo quan niệm của chúng, đã khích lệ chúng trở nên hăng say cuồng nhiệt một cách vô ích và đầy khiêu khích. Chúng tiến thành một hàng thưa thớt, ưỡn ngực hiên ngang hơn cả sĩ quan ngự lâm quân, chúng bất chấp nguy hiểm, không thèm chạy từng quãng hoặc nằm xuống đất, mặc dù bãi trống có nhiều mô đất và gò đống dùng để ẩn nấp rất tốt. Làn đạn của quân du kích quét ngã chúng gần hết.

Ở giữa bãi trống trơ trụi, nơi bọn bạch vệ đang tiến công, có một cây bị chết cháy. Nó bị sét đánh, bị lửa thiêu, hoặc bị đốt sém bởi các cuộc giao tranh trước đây. Mỗi tên lính bộ binh tình nguyện kia trong lúc tiến lên đều nhìn vào cái cây ấy, cố chống chọi cái ý muốn nấp vào sau thân cây để nhắm bắn chính xác và an toàn hơn, nhưng chúng coi khinh nó và tiếp tục tiến tới.

Du kích chỉ có một ít đạn nên phải tiết kiệm. Lệnh đưa ra và được tất cả ủng hộ, là chỉ bắn từ cự ly gần và từ những vị trí thấy rõ mục tiêu!

Zhivago không có súng, nằm trên cỏ quan sát diễn biến trận đánh. Toàn bộ sự thông cảm chàng dành cho cái bọn trẻ đang chết một cách anh dũng kia. Chàng thật tâm mong cho chúng thắng trận. Đó là con em những gia đình rõ ràng rất gần gũi về tinh thần với chàng, có cùng nền giáo dục cùng nề nếp luân lý, cùng những quan niệm như chàng.

Chàng thoáng nảy ra ý nghĩ chạy xuóng bãi trống đầu hàng chúng, do đó sẽ lấy lại được tự do. Nhưng làm như thế là liều lĩnh, quá nguy hiểm.

Giả sử chàng chạy được tới giữa bãi trống, hai tay giơ cao, thì chàng có thể sẽ bị hạ thủ từ cả hai phía, vào lưng và vào ngực, phiá du kích thì để trừng phạt chàng về tội phản bội, phía bạch vệ thì vì không hiểu ý định của chàng.

Chàng đã mấy lần lâm vào cảnh ngộ tương tự, chàng đã suy tính mọi khả năng và từ lâu đã gạt bỏ mọi kế hoạch trốn chạy ấy. Chàng đành nhẫn nhục bằng lòng với hai cảm xúc trái ngược ấy, nằm sấp hướng mặt về phía bãi trống, không có vũ khí, nấp mình trong cỏ mà theo dõi diễn biến trận đánh.

Song phải nằm một chỗ quan sát thụ động trận đánh một mất một còn đang diễn ra quanh mình thì quả là vô nghĩa và vượt quá sức người. Và vấn đề không phải ở lòng trung thành với cái bên đang cầm chân chàng, không phải ở sự tự bảo vệ mình, mà là ở chỗ phải tuân theo diễn biến trước mắt, phải phục tùng những quỵ luật của tấn thảm kịch đang diễn ra xung quanh chàng. Không tham gia vào đó tức là chống lại quy luật cần phải làm những gì người ta đang làm. Trận đánh đang diễn ra. Người ta đang bắn vào chàng và các chiến hữu của chàng. Cần phải bắn trả.

Bởi vậy khi anh chiến sĩ điện báo nằm bên cạnh chàng giãy đành đạch rồi nằm duỗi thẳng cẳng bất động, thì chàng bèn bò lại bên anh ta, gỡ lấy bao đạn và cây súng của anh ta, trở về chỗ cũ của mình, nạp đạn và súng và bắn hết viên nọ đến viên kia.

Nhưng lòng thương hại không cho phép chàng nhắm vào những thanh niên mà chàng cảm mến. Mà bắn chỉ thiên thì là hành động quá ngu ngốc và lố bịch, trái với dự định của chàng. Vì thế chàng chọn những lúc không có ai giữa tầm súng của chàng và mục tiêu, để nhắm bắn vào cái cây khô cháy. Chàng có thủ pháp riêng của chàng.

Lúc điểm ngắm chính xác dần, chàng khẽ ấn tay vào cò súng. Ấn rất nhẹ, theo kiểu bắn chơi, để viên đạn bay đi theo đúng dự kiến, trúng vào các cành thấp xung quanh cái cây cháy xém làm cho chúng rơi lả tả.

Nhưng than ôi! Dù chàng hết sức cẩn thận để khỏi bắn trúng ai, song kẻ này kẻ nọ trong đám lính đang tấn công vẫn hiện ra vào cái khoảnh khắc quyết định giữa chàng và mục tiêu để rơi đúng vào xạ tuyến khi súng nổ. Chàng đã bắn bị thương hai tên, tên thứ ba vô phúc gục chết gần gốc cây.

Cuối cùng tên chỉ huy bạch vệ cầm chắc là cuộc tấn công chỉ vô ích, bèn ra lệnh rút lui.

Đơn vị du kích ít người. Lực lượng chính không có ở đây: một số đang trên đường hành quân, một số đang giao chiến với những lực lượng lớn hơn của quân địch ở phía khác. Để khỏi bộc lộ sự thua kém về quân số của mình, anh em du kích không xông ra truy kích bọn địch.

Y sĩ Anghelia dẫn hai y tá mang cáng ra bìa rừng. Zhivago bảo họ săn sóc thương binh, còn chàng bước tới chỗ anh lính điện báo đang nằm bất động, với hy vọng mong manh rằng anh ta còn thở, may ra có thể cứu sống. Nhưng anh ta đã chết.

Để kiểm tra cho chắc chắn, Zhivago cởi cúc áo sơ mi trên ngực anh ta và áp tai nghe tim. Tim đã ngừng đập.
Người chết đeo ở cổ một cái hộp nhỏ đựng ảnh. Zhivago gỡ cái hộp ra. Trong hộp có một tờ giấy nhỏ được gấp lại, các mép gấp đã sờn hết, bọc trong một mảnh vải. Bác sĩ giở tờ giấy ra. Nó bị nát bở đến một nửa.

Mảnh giấy ghép những câu trích từ bài Thánh ca thứ 90, với những chữ sửa đổi và thêm thắt và dân chúng thường đưa vào các bài kinh và càng về sau càng xa với nguyên bản.

Những câu văn của giáo hội Slavơ được dịch sang tiếng Nga. Nguyên văn trong Thánh ca “Người sống dưới sự che chở của Đấng Tối cao”, trong bản dịch lại trở thành đầu đề của lời cầu “Sự che chở sống động”. Câu thơ trong Thánh ca: “Ngươi sẽ không sợ… mũi tên bay giữa ban ngày”, lại biến thành lời khích lệ “Chớ có sợ mũi tên của chiến tranh”. Thánh ca nói: “Bởi lẽ nó đã biết danh ta”, thì trong tờ giấy ghi “Nó biết danh ta quá muộn”. Và “Trong sầu não ta sẽ ở cùng ngươi… ” bị viết chệch thành “Mùa đông giá lạnh sắp đến cùng ngươi”.

Bản Thánh ca được coi là linh diệu, che mũi tên hòn đạn. Trong cuộc chiến tranh đế quốc 1914 – 1918, binh lính đã đeo nó làm bùa hộ mệnh. Hàng chục năm trôi qua và mãi về sau, những người bị giam cầm đã khâu nó vào quần áo và thầm đọc đi đọc lại khi bị gọi đi lấy cung vào ban đêm.

Từ chỗ anh chiến sĩ điện báo, Zhivago đi ra bãi trống, tới bên xác tên bạch vệ trẻ tuổi bị chàng bắn chết. Trên khuôn mặt khôi ngô của hắn, có thể đọc được những nét hồn nhiên vô tội và nỗi đau khổ đầy bao dung. “Mình giết hắn làm gì nhỉ?” – Zhivago tự hỏi.

Chàng cởi cúc áo capốt của hắn mở phanh vạt áo. Trên lớp vải lót, họ tên của hắn được thêu bằng chữ xiên xiên rất đẹp bởi một bàn tay cẩn thận và âu yếm, chắc là bàn tay người mẹ “Seriozha Ransevich”.

Từ chỗ vạt áo sơ mi lòi ra một cây thánh giá nhỏ, một tấm ảnh đeo tròn tròn và một chiếc hộp dẹp bằng vàng, nắp hộp bị thủng một lỗ bằng đầu đinh. Chiếc hộp nửa đóng nửa mở. Một nảnh giấy gấp rơi ra. Zhivago giở mảnh giấy và tưởng mình nhìn nhầm: đó cũng chính là bản Thánh Ca số 90, có điều được in bằng tiếng Slavơ đúng như nguyên bản của nó.

Đúng lúc đó, Seriozha rên lên một tiếng, cựa quậy chân tay. Cậu ta còn sống. Sau đó mới biết cậu ta chỉ bị chấn thương nhẹ ở bên trong. Viên đạn ở cuối tầm bay đập vào mép cứng của lá bùa hộ mệnh người mẹ khâu cho cậu ta đã cứu cậu ta thoát chết. Nhưng biết làm gì với gã thiếu niên bất tỉnh nhân sự này?

Thời kỳ này, sự hung dữ của lính tráng lên tới cực điểm. Tù binh bị bắn bỏ giữa đường dẫn giải, thương binh của đối phương bị giết chết luôn tại trận.

Với thành phần luôn luôn thay đổi của quân đội ở rừng, khi thì nhận thêm những thợ săn mới, khi thì có kẻ bỏ trốn hoặc chạy sang hàng ngũ kẻ thù; nếu biết giữ bí mật thật cẩn thận, có thể nói dối mọi người rằng Seriozha là một chiến sĩ mới gia nhập đơn vị.

Zhivago lột lấy quần áo ngoài của anh chiến sĩ điện báo đã chết, rồi với sự trợ giúp của Anghelia, người mà chàng ngỏ cho biết ý đồ của chàng, chàng thay quần áo cho gã thiếu niên lúc ấy vẫn chưa tỉnh lại.

Chàng và viên y sĩ săn sóc cậu ta. Khi Seriozha hoàn toàn bình phục, họ để cậu ta ra đi, mặc dù cậu ta không giấu giếm hai ân nhân của mình, rằng cậu ta sẽ trở lại với quân đội Konchak và sẽ tiếp tục chiến đấu với Hồng quân.

Vào mùa thu du kích đóng căn cứ ở Mõm Cáo, một khu rừng nhỏ nằm trên một quả đồi. Dưới chân đồi, từ ba phía có một dòng sông chảy siết sủi bọt tráng xoá cứ xói mãi vào bờ thành các ổ lõm.

Trước khi du kích đến, bọn bạch vệ dưới quyền tướng Kappen đã đóng doanh trại mùa đông ở đây. Bằng sức lực của chúng và huy động dân cư quanh vùng, chúng đã dựng lên các đồn lũy trong rừng, đến mùa xuân thì chúng bỏ đi. Bây giờ du kích tận dụng các căn hầm, công sự và hào giao thông còn nguyên vẹn.

Liveri và bác sĩ Zhivago ở cùng một căn hầm. Đã hai đêm nay anh ta luôn miệng trò chuyện với chàng khiến chàng mất cả ngủ.

– Ước gì tôi biết hiện giờ cái ông già đáng kính của tôi, cha tôi ấy mà, đang làm gì.

“Lạy Chúa, sao mình ghét cái giọng nói trò hề ấy thế không biết. – Zhivago nghĩ thầm. – Trông hắn giống cha như đúc!”

– Căn cứ vào các buổi trao đổi trước đây của chúng ta, tôi kết luận rằng bác sĩ biết khá rõ về lão già ấy. Và tôi có cảm tưởng bác sĩ nghĩ tương đối tốt về lão. Phải vậy không, thưa quý ngài đốc- tờ?

– Ông Liveri, ngày mai chúng ta phải họp bàn về bầu cử ở trên ngọn gò trong rừng thưa. Ngoài ra, sắp phải lập phiên toà xét xử mấy cậu y tá nấu rượu trái phép. Tôi và Laiot chưa chuẩn bị xong hồ sơ tài liệu về vụ đó. Sáng mai, hai chúng tôi sẽ họp bàn với nhau. Thế mà hai đêm nay tôi không ngủ được. Ta hãy gác việc nói chuyện lại vào dịp khác. Mong ông làm ơn cho tôi nhờ.

– Không, dầu sao ta cũng trở lại chuyện lão Miculisyn cái đã. Bác sĩ có nhận xét gì về lão khọm già ấy?

– Ông Liveri, cha ông còn trẻ lắm mà. Tôi không hiểu tại sao ông lại gọi cha mình như thế. Còn bây giờ thì tôi xin trả lời câu hỏi của ông. Tôi vẫn thường bảo ông, rằng tôi không thông thạo các đặc trưng riêng biệt của chủ nghĩa xã hội, nên tôi không thấy có sự dị biệt giữa những người Bolsevich với những nhà xã hội khác. Cha của ông nằm trong số những người làm cho nước Nga lâm cảnh nhiễu nhương rối loạn trong mấy năm qua. Cha của ông là một típ người có tính cách mạng. Cả hai cha con ông đều đại diện cho đặc điểm phân rã của dân Nga.

– Đó là lời khen ngợi hay chê trách đấy?

– Một lần nữa tôi dề nghị gác cuộc tranh luận vào dịp khác thuận tiện hơn ngoài ra, tôi lưu ý ông về món cocain mà ông lại cứ đem ra hít ngửi vô điều độ. Ông cứ tự tiện lấy cocain trong tủ thuốc dự trữ mà tôi có trách nhiệm bảo quản. Chúng ta cần dùng nó vào các mục đích khác, đấy là chưa nói đến chuyện nó là một thứ độc dược và tôi phải chịu trách nhiệm về sức khỏe của ông.

– Hôm qua bác sĩ lại không dự lớp huấn luyện. Bác sĩ mắc căn bệnh suy dinh dưỡng ý thức – xã hội y như các mụ nhà quê thất học và bọn tiểu thị dân lạc hậu. Trong khi ngài lại là bác sĩ, một người uyên bác và thậm chí hình như còn viết sách nữa. Bác sĩ hãy giải thích xem, tại sao hai chuyện đó lại có thể đi đôi với nhau nào?

– Tôi không biết tại sao. Chắc hai chuyện đó không thể đi đôi với nhau, nhưng biết làm thế nào được. Hoàn cảnh tôi thật đáng thương.

– Nhẫn nhục còn tệ hơn cả kiêu căng. Bác sĩ chớ nên cười giễu cợt theo kiểu đó, mà hãy nghiên cứu chương trình huấn luyện của chúng tôi, thì sẽ thấy ngay sự kiêu căng của bác sĩ là không đúng chỗ chút nào.

– Ông muốn nói sao tùy ông! Sao lại có chuyện kiêu căng ở đây? Tôi rất khâm phục công tác giáo dục của các ông. Tôi có đọc bản đề cương tóm tắt những vấn đề được đem ra thảo luận hàng ngày. Những tư tưởng của ông về sự phát triển tinh thần của binh sĩ, tôi biết cả. Tôi rất khâm phục. Tất cả những điều ông nói về thái độ của người chiến sĩ quân đội nhân dân đối với các đồng chí, đối với những kẻ yếu đuối, những kẻ không được ai che chở, đối với phụ nữ, đạo đức và danh dự trong sáng, – tất cả gần giống như những gì đã tạo nên công xã Dukhobo 1. Đó là một kiểu học thuyết Tolstoy, đó là mơ ước về một cuộc sống xứng đáng. Tuổi niên thiếu của tôi đã được nuôi dưỡng bằng tất cả những quan điểm ấy. Tại sao tôi lại đi giễu cợt nó kia chứ?

Nhưng trước hết, những tư tưởng về sự hoàn thiện toàn bộ, theo như quan niệm từ sau Cách mạng tháng Mười đến nay, không khích lệ được tôi. Thứ đến, tất cả những dluyện đó còn lâu mới được thực hiện, và mới chỉ là những lời nói suông về chuyện đó mà người ta đã phải trả bằng hàng biển máu, khiến tôi thấy có lẽ mục tiêu không biện minh được cho phương tiện. Cuối cùng, và cũng là điểm chủ yếu, khi tôi nghe nhắc đến việc cải tạo đời sống thì tôi không còn làm chủ bản thân được nữa và đâm ra thất vọng.

Cải tạo đời sống! Những người lập luận kiểu đó có thể là những người rất từng trải, nhưng lại chưa lần nào biết rõ cuộc sống, chưa cảm nhận được tinh thần của nó, linh hồn của nó. Đối với họ, cuộc sống chỉ là một cục nguyên thô, chưa được bàn tay họ đẽo gọt cho đẹp đẽ, cần phải được họ chế biến. Song đời sống chẳng bao giờ là nguyên liệu hay vật liệu cả. Cuộc sống ông nên nhớ, luôn luôn tự đổi mới bản thân nó, luôn luôn và mãi mãi chế biến căn nguyên, luôn luôn và mãi mãi tự cải tạo và tái hiện, tự nó cao hơn mọi thứ lý luận nhu muội của chúng tôi và của các ông.

– Dẫu vậy, tôi dám góp ý với bác sĩ, rằng việc tham dự các buổi họp và tiếp xúc với những con người kỳ diệu của chúng tôi sẽ nâng cao tinh thần cho bác sĩ Bác sĩ sẽ không sa vào tâm trạng sầu muộn như thế. Tôi biết vì sao bác sĩ có tâm trạng ấy.

Bác sĩ buồn phiền vì cảnh chúng ta bị đánh tới tấp và không thấy le lói tia hy vọng nào chứ gì. Nhưng ông bạn ơi, đừng bao giờ hoảng sợ cả: Tôi còn biết nhiều chuyện kinh khủng hơn gấp bội, có liên quan trực tiếp đến tôi – tạm thời tôi chưa công bố, dẫu thế tôi đâu có bối rối. Thất bại của chúng ta chỉ mang tính chất tạm thời. Tên Konchak ắt phải chết. Bác sĩ hãy nhớ lời tôi. Rồi bác sĩ sẽ thấy. Chúng tôi nhất định thắng. Xin cứ yên tâm đi!

“Thế này thì quái lạ thật? – Zhivago nghĩ thầm. – Thật là trẻ con! Thật là thiển cận! Mình luôn miệng khẳng định với hắn rằng quan điểm của chúng ta đối lập nhau, hắn dùng sức mạnh bắt cóc mình và cầm chân mình ở bên hắn, thế mà hắn lại cứ tưởng rằng các thất bại của hắn khiến mình buồn phiền, rằng các dự tính và hy vọng của hắn sẽ truyền nhuệ khí cho mình. Thật là mù quáng! Đối vớỉ hắn, lợi ích của cách mạng với sự tồn tại của hệ thống mặt trời chỉ là một”.

Zhivago tức sôi máu. Chàng không trả lời, chỉ nhún vai, cũng chẳng thèm giấu rằng sự ngây thơ của Liveri đã vượt quá sức chịu đựng của chàng đang phải cố kìm mình lại. Thái độ đó không lọt khỏi mắt của Liveri.

– Nổi nóng là đuối lý đấy, ông Thiên Lôi ạ, – Liveri nói.

– Ông nên hiểu, ông cần hiểu rằng tất cả những thứ đó chẳng có nghĩa lý gì đối với tôi cả “Thiên Lôi”, “đừng bao giờ hoảng sợ”, “đã nói thì nói cho trót”, “Moa đã làm xong việc của nó, Moa có thể ra đi”, – tất cả những lối nói tầm thường ấy đều vô nghĩa lý đối với tôi. Tôi sẽ nói, nhưng sẽ không nói cho trót, dù ông có uất lên cũng mặc ông. Tôi cứ giả dụ các ông là cây đuốc sáng, là những người giải phóng của nước Nga, rằng không có các ông thì nước Nga sẽ bị diệt vong, bị rơi vào vũng bùn cơ cực và tăm tối, thì tôi cũng vẫn bất cần các ông, tôi không thích các ông và cuối cùng các ông hãy biến đi đâu thì đi.

Những vị điều khiển tư tưởng của các ông mắc cái tội tưng ra hàng đống câu cách ngôn, nhưng lại quên mất điều chủ yếu là không thể ép duyên nhau nên họ nhiễm cái thói quen đem lại tự do và hạnh phúc cho người khác, đặc biệt cho những người không hề xin xỏ họ hai thứ ấy. Chắc các ông tưởng rằng không còn chỗ nào tốt hơn cho tôi bằng cái căn cứ của ông và các chiến hữu của ông. Chắc tôi phải cảm ơn và cầu chúc cho ông vì được giam chân ở đây, vì ông đã giải phóng tôi khỏi gia đình tôi, khỏi con trai tôi, khỏi ngôi nhà, công việc và tất cả những gì thân thiết đối với tôi, những gì hợp thành cuộc sống của tôi.

Người ta dồn đến tận đây rằng có một đơn vị lạ mặt, không phải người Nga đã đột kích vào Varykino. Nghe đâu mọi thứ đều bị triệt hạ và cướp phá. Kamenodvoski không phủ nhận tin ấy. Hình như người nhà của tôi và của ông đều may mắn chạy thoát. Một lũ người mắt xếch, mặc áo bông chần và mũ lông cao, trong một hôm thời tiết rét buốt khủng khiếp, đã vượt sông Ryva đóng băng và lạnh lùng, không thèm nói nửa lời đã bắn chết mọi sinh vật ở khu trại, rồi rút lui cũng bí ẩn như khi xuất hiện. Ông có biết gì về vụ đó không? Có thật vậy không?

– Chuyện bịa đặt nhảm nhí. Chuyện ngồi li đôi mách vô căn cứ.

– Nếu ông tử tế và độ lượng như trong những bài lên lớp của ông về giáo dục đạo đức cho binh sĩ, thì ông hãy thả tôi ra. Tôi sẽ đi tìm gia quyến, những người thậm chí tôi chả còn biết sống chết ra sao và đang ở đâu. Bằng không, xin ông im đi và hãy để tôi yên, bởi vì ngoài cái đó ra, tôi chẳng thiết gì hết, và tôi không chịu trách nhiệm về việc mình sẽ làm. Cuối cùng thì, mẹ kiếp, tôi cũng hoàn toàn có quyền buồn ngủ chứ!

Zhivago nằm sấp xuống giường, gục mặt vào gối. Chàng cố tìm cách không nghe Liveri thanh minh và tiếp tục an ủi chàng, rằng sang xuân bọn bạch vệ chắc chắn sẽ bị đập tan. Cuộc nội chiến sẽ chấm dứt, mọi người sẽ được hưởng tự do, hạnh phúc và hoà bình. Bấy giờ không ai dám giữ chân bác sĩ nữa. Nhưng từ nay đến đó cần cố gắng chịu đựng một chút. Sau ngần ấy thử thách, hy sinh và chờ mong, thì chờ thêm vài tháng nữa nào có sá gì.

Vả bây giờ bác sĩ đi đâu được kia chứ. Chính vì lợi ích của chàng, mà hiện nay không thể để chàng di một mình tới bất cứ nơi nào.

“Thật đúng như cái đĩa hát, đồ quỷ sứ! Hắn lại ba hoa đấy! Sao hắn không biết ngượng mồm, cứ nhai đi nhai lại một luận điệu suốt ngần ấy năm nhỉ?” – Zhivago thở dài và thầm tức giận. – “Hắn say sưa với chính lời lẽ của hắn, cái thằng cha bẻm mép nghiện côcain bất hạn này. Hắn bất chấp ngày hay đêm, cấm để cho người ta ngủ yên thân với hắn, quân khốn khiếp ôi sao mình căm ghét hắn đến thế! Có Chúa chứng giám, thể nào cũng có ngày mình giết hắn! Ôi Tonia tội nghiệp của anh! Em còn sống hay không? Giờ em ở đâu? Lạy Chúa, hẳn em phải qua kỳ sinh nở từ lâu rồi! Em sinh nở ra sao? Em sinh con trai hay con gái? Hỡi những người thân yêu của tôi, tất cả mọi người hiện giờ ra sao? Tonia ơi, anh có lỗi và đáng trách với em biết chừng nào!

Và em, Lara ơi, anh không dám gọi tên em để khỏi tan nát lòng anh. Lạy Chúa! Lạy Chúa! Sao con quái vật đáng ghét, không có cảm xúc kia vẫn đang diễn thuyết luôn miệng đó! Ôi, một ngày kia không chịu nổi nữa, ta sẽ giết hắn, giết chết hắn!

Những ngày ấm nắng đầu thu đã trôi qua. Bây giờ đang là mùa thu vàng với những ngày trong sáng. Ở góc phía tây Mõm Cáo, có một cái chòi gỗ của chiếc lô cốt xưa còn lại nhô lên khỏi mặt đất. Tại đây, Zhivago đã hẹn gặp bác sĩ Laiot, phụ tá của chàng, để bàn bạc mấy việc của đơn vị. Chàng đến nơi hẹn đúng giờ. Trong lúc chờ Laiot tới, chàng đi bách bộ trên bờ chiến hào sụt lở, rồi leo lên chổi gỗ và qua các lỗ châu mai trước kia là nơi đặt súng máy, chàng nhìn sang cánh rừng xa bên kia sông.

Mùa thu đã phân chia rõ ràng giới hạn giữa loài cây lá nhọn và loài cây rậm lá. Cây lá nhọn dựng thành một bức tường tôi tối, gần như đen ở phía xa, cây lá rậm thì như những vệt rượu vang đỏ sáng rực lên ở chỗ này chỗ nọ, trông giống hệt một thị trấn cổ, có những ngôi nhà và vòm mái lát vàng, được dựng ngay giữa rừng bằng các thân cây.

Đất dưới giao thông hào, dưới chân bác sĩ và trong các rãnh do bánh xe hằn xuống trên con đựờng rừng bị cứng lại vì sương giá ban mai, phủ đầy một lớp là liễu khô, nhỏ xíu, xoăn xoăn như dăm bào. Mùa thu toa ra mùi lá liễu nâu nâu đăng đắng ấy cùng vô số thứ mùi phụ khác. Zhivago thèm khát hít cái mùi hỗn hợp của táo ướp lạnh, của đất chát, hơi ẩm ngòn ngọt và mùi khen khét của khí trời tháng chín trong xanh, giống như mùi hơi nước bốc lên từ một đống lửa hoặc một đám cháy vừa bị dội nước tắt ngấm.

Zhivago không biết Laiot đã tới sát sau lưng chàng.

– Chào đồng nghiệp, – Laiot nói bằng tiếng Đức.

Họ thảo luận công việc, Zhivago nói:

– Có ba điểm phải bàn. Một, những kẻ nấu rượu trái phép; hai, tổ chức lại bệnh viện dã chiến và kho thuốc; và cuối cùng, tôi nhấn mạnh điểm này, là điều trị ngoại trú cho các bệnh nhân tâm thần, trong hoàn cảnh hành quân. Có lẽ anh chưa thấy điều đó là cần thiết, nhưng theo nhận xét của tôi thì chúng ta đang phát điên lên cả, anh bạn Laiot ạ, và các dạng của bệnh điên thời nay mang tính chất bệnh truyền nhiễm.

– Đó là một vấn đề rất đáng chú ý. Tôi sẽ trở lại vấn đề ấy sau cùng. Bây giờ tôi muốn nói với anh điều này: mọi người trong căn cứ đang xôn xao náo động. Nhiều người động lòng trắc ẩn trước số phận của mấy kẻ nấu rượu trái phép. Họ cũng lo lắng cho số phận của gia quyến họ, cho những người thân chạy trốn khỏi làng khi bọn bạch vệ kéo tới. Một số du kích không chịu rời căn cứ, vì đoàn xe ngựa chở vợ con, cha mẹ họ sắp đến đây.

– Vâng, nên chờ đến lúc đoàn người ấy đến.

– Và tất cả những chuyện ấy lại xảy ra trước ngày bầu cử vị chỉ huy thống nhất, chung cho tất cả các đơn vị, trong đó có những đơn vị trước đây không thuộc biên chế của chúng ta. Tôi nghĩ sẽ chỉ có một ứng cử viên độc nhất là đồng chí Liveri.

Nhóm thanh niên đề cử Vdovichenko, ủng hộ Vdovichenko là những kẻ xa lạ với chúng ta, liên kết với cái đám nấu rượu trái phép, là con cái bọn phú nông và con buôn, là đám lính đào ngủ khỏi quân đội Konchak. Chính bọn ấy làm rùm beng hơn cả.

– Theo đồng nghiệp, thì những cậu y tá nấu và bán rượu trái phép sẽ bị ừng phạt như thế nào?

– Tôi chắc họ sẽ bị kết án tử hình, nhưng người ta sẽ không xử bắn, mà cho họ hưởng án treo.

Nhưng chúng ta bàn vào thực chất công việc đi thôi. Trước hết tôi muốn xem xét vấn đề tổ chức lại bệnh viện dã chiến.

– Đồng ý. Nhưng tôi phải nói rằng không hề ngạc nhiên khi anh đề nghị phòng ngừa bệnh tâm thần. Tôi cũng nghĩ như anh. Đã xuất hiện và lan rộng những căn bệnh tâm thần rất điển hình, mang những đặc điểm nhất định của thời đại, do các đặc điểm lịch sử của thời đại trực tiếp gây ra. Ở đơn vị ta, có một anh trước kia là lính trong quân đội Nga hoàng, một người giác ngộ cao, có bản năng giai cấp bẩm sinh, tên là Pamphin Palyk. Đó chính là lý do khiến anh ta phát điên. Anh ta run sợ cho gia quyến của mình, trong trường hợp nếu anh ta chết, còn gia quyến rơi vào tay bọn bạch vệ và sẽ chịu trách nhiệm lây vì anh ta. Một tâm lý rất phức tạp. Gia quyến của anh ta hình như có mặt trong đoàn người tị nạn sắp đến căn cứ này. Tôi không đủ trình độ tiếng Nga để hỏi han anh ta cặn kẽ. Anh hãy hỏi thêm chi tiết qua Anghelia hoặc Kamenodvoski.

– Nên khám bệnh cho anh ta.

– Tôi biết Palyk rất rõ, quá rõ là đằng khác. Có lần tôi đã đụng hắn ở hội đồng quân nhân. Một gã tàn nhẫn, da đen sạm, trán thấp. Tôi không hiểu anh thấy hắn tốt ở điểm nào. Hắn luôn luôn ủng hộ các biện pháp cực đoan, nghiêm khắc, các bản án tử hình. Và tôi luôn luôn ghê tởm hắn, thôi được. Tôi sẽ khám cho hắn.

Đó là một ngày trong sáng, đầy nắng. Tiết trời khô ráo và dìu dịu như suốt tuần lễ trước.

Từ giữa khu căn cứ vọng lại tiếng rầm rì lao xao của một khối người tụ tập đông đảo, nghe như tiếng chân rậm rịch trong khu rừng, tiếng người nói, tiếng rìu bổ, tiếng búa nện xuống đe, tiếng ngựa hí, tiếng chó sủa và tiếng gà gáy.

Từng tốp người da rám nắng, mỉm cười phô hàm răng trắng, đi lũ lượt trong rừng. Một số người biết bác sĩ Zhivago cúi đầu chào chàng, những người không biết thì lặng lẽ đi ngang qua.

Mặc dù anh em du kích không đồng ý rời căn cứ Mõm Cáo khi đoàn xe chở gia quyến của họ chưa kịp đến đây với họ, song đoàn xe ấy chỉ còn cách đây không xa, nên mọi người trong căn cứ đang chuẩn bị nhổ trại thật mau để di chuyển sang phía Đông. Họ lau chùi, sửa chữa thứ này thứ nọ, xếp dọn đồ đạc hòm xiểng, điểm lại và kiểm tra tình trạng của xe cộ.

Ở giữa rừng có một cái gì lớn, cỏ bị giẫm nát, xem chừng là một khu mộ cổ, mà dân địa phương gọi là Đống. Đống thường được dùng làm nơi tập trung quân đội. Hôm nay người ta triệu tập toàn bộ anh em du kích tại đây để công bố một tin quan trọng.

Trong rừng còn người cây lá chưa úa vàng. Ở chính giữa rừng, lá cây hầu hết còn xanh tươi. Mặt trời xế chiều xuyên qua cây lá hắt từ phía dưới lên. Lưng những chiếc lá được ánh nắng chiếu vào cháy lên ngọn lửa xanh như các mảnh chai trong suốt.

Trên một khoảng đất trống cạnh kho hồ sơ lưu trữ, trưởng ban thông tin liên lạc Kamenodvoski đang đốt đám giấy tờ cũ, đã được xem qua và không còn tác dụng, do văn Phòng của tướng Kappen bỏ lại, cùng với một số thống kê báo cáo của chính đoàn quân du kích. Đống lửa được nhóm ở chỗ có ánh nắng. Mặt trời rọi qua ngọn lửa trong suốt như rọi qua lá xanh của rừng cây. Không thấy lửa, chỉ thấy những luồng khí nóng chuyển động lung linh như vảy mica, chứng tỏ có một cái gì đang cháy và bị đốt nóng.

Đó đây trong rừng nổi rõ sặc sỡ từng chùm hạt chín của các loại cây: cây thủy cần nhiều màu, cây cơm cháy màu đỏ gạch, cây hí cầu màu tía pha bạc. Những con chuồn chuồn lốm đốm và trong suốt, như lửa và lá cây, xập xòe đôi cánh thuỷ tinh, thong thả bơi trên không trung.

Zhivago từ nhỏ đã yêu thích cảnh rừng buổi chiều tà tràn ngập ánh lửa hoàng hôn. Những phút ấy đúng là cả chàng cũng đang để cho các cột ánh sáng kia rọi qua người mình.

Đúng là cái năng khiếu tinh thần sống động đã tràn vào ngực chàng, thấm ngập toàn bộ cơ thể chàng, rồi từ bên dưới xương bả vai giang rộng đôi cánh bay ra. Mỗi thiếu niên đều tạo ra cho mình một hình ảnh đầu tiên, hình ảnh ấy sẽ được ghi nhớ suốt đời, trở thành diện mạo bên trong và nhân cách của người ấy. Hình ảnh đó vừa hiện ra trong óc chàng với toàn bộ sức mạnh ban đầu của nó, buộc thiên nhiên, rừng cây, cảnh hoàng hôn và hết thảy vạn vật phải hoá thân thành dung nhan ban đầu đầy sức bao quát của một thiếu nữ “Lara!” – Chàng nhắm mắt thì thầm như đang hướng tới toàn bộ cuộc đời mình, toàn bộ cõi trần thế và toàn bộ không gian rực rỡ nắng vàng đang trải ra trước mắt chàng.

Nhưng cái thực tại cấp thiết, thường ngày vẫn còn đó, cuộc cách mạng tháng Mười đã diễn ra ở nước Nga, và chàng đang là tù binh của đội quân du kích: Bâng khuâng, ngớ ngẩn, chàng bước lại bên đống lửa của Kamenodvoski lúc nào cũng chẳng hay.

– Anh đang hủy giấy tờ đấy ư? Vẫn chưa đốt hết ư?

– Đã hết sao được! Còn lâu mới hủy xong món hàng này.

Zhivago dùng mũi ủng hất một chồng giấy rơi lả tả. Đó là các thư tín của ban tham mưu bạch vệ. Chàng chợt lờ mờ dự đoán rằng giữa các đống giấy ấy có thể bắt gặp họ tên của Seriozha Ransevich, nhưng chàng lầm. Đây là một chồng bản tin vô vị, cũ mèm từ cách đây hai năm, viết bằng mật mã theo kiểu viết tắt, đại loại như:
“Omsk tổng h dinh tối cao th nhất b sao sao Omsk Kh ta Ômsk b đồ bốn mươi dặm enixây không đến”.

Chàng hất một đống giấy khác. Thấy tung ra các tờ biên bản những buổi họp ngày trước của đội du kích. Tờ trên cùng có ghi: “Khẩn. Về việc nghỉ phép. Bầu lại các uỷ viên ban thanh tra. Việc thường ngày. Do không chứng minh được những lời buộc tội đối với cô giáo làng Ignatodvo, nên hội đồng quân nhân cho rằng…”.

Lúc đó Kamenodvoski rút trong túi ra một tờ giấy và đưa cho Zhivago:
– Đây là quy định về bộ phận y tế của đồng chí trong trường hợp nhổ trại. Đoàn xe chở gia quyến của anh em du kích đã đến gần. Những ý kiến bất đồng trong khu căn cứ sẽ được dàn xếp xong xuôi ngay hôm nay. Chỉ cần ngày một ngày hai là chúng ta sẽ lên đường.

Zhivago nhìn tờ giấy và kêu lên ngạc nhiên:
– Thế này thì người ta cho tôi ít phương tiện hơn cả lần trước. Trong khi có thêm bao nhiêu là thương binh! Những người có thể đi lại hoặc còn đang băng bó sẽ đi bộ. Nhưng số lượng những người ấy chẳng đáng kể. Tôi biết lấy gì để chở các thương binh nặng? Rồi còn thuốc men, giường chiếu, dụng cụ y tế?

– Đồng chí tìm cách tự xoay sở lấy. Phải thích ứng với hoàn cảnh. Bây giờ qua việc khác. Đơn vị ta có một chiến sĩ giàu kinh nghiệm, đã được thử thách, trung thành với sự nghiệp và rất gương mẫu. Nhưng đồng chí đó đang làm sao ấy.

– Palyk phải không? Bác sĩ Laiot có nói với tôi.

– Đúng. Đồng chí hãy khám cho anh ta.

– Bệnh tâm thần chứ gì?

– Có lẽ thế? Theo lời anh ta, lúc nào cũng thấy lởn vởn ma trơi Chắc là bị ảo giác. Mất ngủ. Đau đầu.

– Được. Tôi sẽ khám ngay bây giờ vì tôi đang rảnh. Bao giờ thì khai mạc đại hội?

– Tôi cho rằng đã đông đủ. Nhưng đồng chí chả cần dự. Tôi cũng vậy. Ta vắng mặt cũng chả sao.

– Thế thì tôi đi gặp Palyk đây. Mặc dù cơ hồ tôi không đứng vững vì buồn ngủ quá. Ông Liveri đêm nào cũng thích triết lý vụn, buộc tôi phải hầu chuyện. Đến chỗ Palyk đi lối nào? Anh ta ở đâu?

– Bác sĩ biết cánh rừng bạch dương ở sau hố đá chứ? Cánh rừng non ấy.

– Tôi sẽ tìm ra.

– Ở một bãi trống tại đó có các lều của chỉ huy. Chúng tôi dành cho Palyk riêng một cái, – trong lúc chờ gia quyến. Vợ con anh ta đang trên đường tới đây cùng đoàn xe. Vậy là bác sĩ sẽ tìm anh ta ở một trong số mấy cái lều của chỉ huy. Anh ta hưởng tiêu chuẩn tiểu đoàn trưởng vì có nhiều thành tích với cách mạng.

Trên đường tới chỗ Palyk, bác sĩ cảm thấy không đủ sức để bước nữa. Mệt rã rời, chàng không sao thắng nổi cơn buồn ngủ, là hậu quả của mấy đêm liền chả được ngủ nghê gì. Có thể trở về hầm chợp mắt một lát, nhưng Zhivago sợ về đó, vì bất cứ lúc nào Liveri cũng có thể vào hầm quấy rầy chàng.

Chàng nằm xuống một chỗ trong rừng có cây cối bao quanh, trải đầy lá vàng. Lá rơi tạo thành một tấm nệm kẻ sọc vuông. Những tia nắng cũng rọi xuống tấm thảm vàng thành từng ô như thế. Cái bức thảm kép rực rỡ sắc màu ấy làm mắt chàng hoa lên, thêm buồn ngũ, giống như lúc đọc một cuốn sách chữ nhỏ li ti hoặc nghe những tiếng rì rào đơn điệu.

Bác sĩ nằm xuống lớp lá sột soạt như lụa, cánh tay gập lại kê dưới đầu, trên một đám rêu bao quanh gốc cây xù xì làm gối. Chàng ngủ thiếp đi ngay. Các tia nắng đã ru chàng ngủ, bây giờ đang kẻ ô vuông trên thân thể chàng, khiến chàng lẫn vào tấm kính vạn hoa sặc sỡ của các tia sáng và cây là, y hệt chàng khoác một chiếc áo tàng hình.

Chẳng mấy chốc cái ý muốn quá mạnh mẽ và sự cần thiết phải được ngủ của chàng lại đánh thức chàng dậy. Các nguyên nhân trực tiếp chỉ tác động trong giới hạn tương xứng. Sự quá độ gây ra tác động ngược lại. Các ý thức tỉnh táo, không tìm được sự nghỉ ngơi, bèn hoạt động loạn lên vì chạy không tải.

Các mẩu ý nghĩ cứ quay tít như bánh xe và phát tiếng kêu lạ tai như một chiếc máy hư. Trạng thái rối loạn nội tâm ấy hành hạ và chọc giận Zhivago. “Thằng cha Liveri khốn kiếp. – chàng uất ức nghĩ – Thế gian đã có hàng nghìn cái cớ khiến người ta phát điên lên rồi mà hắn vẫn cho là chưa đủ còn đi cầm từ, kết bạn và huyên thuyên ngu ngốc với một người khỏe mạnh, khiến người ấy loạn cả thần kinh mới xong. Một ngày kia sẽ giết hắn”.

Một con bướm lốm đốm màu nâu, như một mảnh vải màu cứ gấp vào rồi lại mở ra, bay từ phía mặt trời qua chỗ chàng. Chàng đưa cặp mắt ngái ngủ nhìn theo nó. Con bướm đậu xuống một chỗ hợp với màu sắc của nó nhất là cái vỏ màu nâu thẫm của cây thông, khiến nó lẫn hẳn vào vỏ thông, hệt như Zhivago lẫn vào tấm lưới tia nắng và bóng cây đang đùa giỡn trên người chàng.

Một loạt ý nghĩ quen thuộc xâm chiếm trí óc chàng. Trong hoạt động y học, chàng từng nhiều lần gián tiếp động chạm đến chúng, về ý chí và mức độ hợp lý, hữu ích như là hệ quả của sự thích nghi ngày một cao, về sự nguỵ thái, về màu sắc bắt chước và phòng ngừa, về sự sinh tồn của những loài có khả năng thích nghi cao nhất. Về chuyện đó có lẽ con đường lựa chọn tự nhiên cũng đồng thời là con đường kiến tạo và phát sinh ý thức. Chủ thể là gì? Khách thể là gì? Định nghĩa như thế nào sự đồng nhất của chúng? Trong cách suy luận của bác sĩ Zhivago, thì Darwin gặp Senling, con bướm kia gặp hội hoạ hiện đại, gặp nền nghệ thuật ấn tượng chủ nghĩa. Chàng nghĩ đến sáng tạo, đến vạn vật, đến sáng tác thật sự và giả dối.

Rồi chàng lại thiếp đi; để một phút sau thức giấc bởi tiếng nói thì thào khe khẽ gần đâu đây. Chỉ nghe qua vài lời vọng tới Zhivago đã hiểu người ta đang thoả thuận với nhau một chuyện bí mật, phi pháp. Hiển nhiên bọn người kia không nhìn thấy chàng, đang nằm gần chúng. Giả dụ, bây giờ chàng cựa quậy và để lộ sự có mặt của mình, chàng sẽ mất mạng như chơi. Zhivago bèn rún thing giả chết và lắng tai nghe.

Một vài giọng nói, chàng đã nhận ra. Đó là mấy phần tử cặn bã tầm thường trong đội quân du kích và đám lau nhau theo đuôi chúng như Sanka, Goska và Teresa. Bọn này chuyên gây ra những trò xấu xa ô nhục. Một phần tử còn đáng ngờ hơn, có dính đến vụ nấu rượu trái phép, là Dakha Gorazdyk, song hắn tạm thời chưa bị truy cứu trách nhiệm vì đã tố giác bọn chủ mưu. Điều khiến Zhivago ngạc nhiên là sự có mặt của Sivoblui, một chiến sĩ của “Đại Đội Bạc”, là một vệ sĩ của vị chỉ huy. Theo truyền thống có từ thời Radin và Pugachev, kẻ thân cận được Liveri tin cậy ấy mang biệt danh là tai mắt của chỉ huy trưởng. Vậy mà hắn cũng tham dự vào âm mưu này.

Bọn âm mưu làm phản đang thương lượng với mấy tên do đơn vị tiên phong của địch cử tới. Đám “sứ giả” này nói nhỏ qưá nên Zhivago không nghe thấy gì, chàng chỉ đoán, căn cứ vào các đoạn ngắt quãng sau tiếng thì thào của bọn âm mưu làm phản, – Rằng bây giờ đến lượt các đại diện của đối phương lên tiếng.

Nói nhiều hơn cả là thằng cha ghiền rượu Dakha. Giọng tên này khàn khàn, đứt đoạn, xen nhiều câu văng tục. Chắc hắn là kẻ chủ mưu.

– Bây giờ chúng mày nghe đây. Cái chính là bí mật, cấm tiết nộ. Đứa nào thối chí, há mõm tố cáo, thì nhìn con dao găm này đây. Tao sẽ moi ruột nó ra. Hiểu chưa? Từ giờ bọn mình không còn đường nào khác, đứng giữa chỉ có chết. Phải hành động để được khoan hồng. Phải chơi một vố thật độc đáo, chưa từng thấy. Họ đòi hỏi bắt sống nó, trói nại, điệu nó đi. Họ vừa bảo đại uý Galevoi của họ (đám kia nhắc gã nói cho đúng, nhưng hắn nghe không ra, bèn chữa lại “đại tướng Galev” đang tới gần khu rừng này. Dịp may như thế cóc bao giờ có nữa. Đây nà các đại diện của họ. Họ sẽ chứng minh cho chúng mày mọi chuyện. Họ bảo nhất thiết phải bắt sống nó trói gô nó nại.

Chúng mày cứ hỏi các vị đây. Kìa, chúng mày nói đi. Nói với họ vài câu gì đi. Không thì để các vị ấy nói.

Đến lượt bọn đại diện được cử tới lên tiếng. Zhivago không nghe lọt được tiếng nào. Căn cứ vào thời gian im lặng kéo đài, có thể doán rằng bọn kia trình bày rất tỉ mỉ. Rồi Dakha lại tiếp:

– Anh em nghe rõ chưa? Giờ thì anh em tự thấy cánh mình phải làm tôi mọi cho một thằng quý hoá, một tên nhãi ranh rồi chứ? Có đáng mất mạng vì một kẻ như nó không? Có đáng gọi nó nà người không? Nó chỉ nà một thằng ngợm, hoặc một gã thày tu khổ hạnh. Tao vả vào mõm mày bây giờ, Teresa, lúc ấy mày sẽ tha hồ mà cười, đồ ngu, giảng cho mày nghe chỉ phí công toi. Phải, tôi bảo nó chỉ nà một thằng thầy tu nhãi ranh. Mình cứ theo nó, nó sẽ thiến mình, biến mình thành thầy tu hết. Nghe nó giảng đủ biết: nào chúng ta chớ nên chửi rủa, đả đảo thói văng tục, nào nà phải chống tệ nạn rượu chè, nào nà phải đứng đắn với nữ giới. Có thể sống như vậy hả? Tóm nại, tối nay, ở bến sông, nơi người ta kê đá, – tao sẽ rủ nó ra cánh rừng thông. Bọn mình sẽ xông ra đè nghiến nấy nó. Dễ như trở bàn tay, phải không nào? Có khó chăng nà họ muốn ta phải bắt sống hắn. Trói gô nại được, nếu thấy không ổn, tao sẽ tự niệu nấy, tự tay tao sẽ hạ thủ nó. Họ sẽ cử người đến trợ giúp.
Dakha tiếp tục trình bày kế hoạch làm phản, nhưng vì hắn cùng cả bọn bắt đầu đi xa dần, nên Zhivago không nghe thấy gì nữa.

“Đấy là chính định phản Liveri, bọn khốn nạn!” – Zhivago kinh sợ và tức giận nghĩ thầm, quên rằng đã bao lần chính chàng đã nguyền rủa và cầu mong cho kẻ hành hạ mình chết đi “Bọn đốn mạt ấy định nộp Liveri cho quân bạch vệ hoặc thú tiêu anh ta. Làm cách nào ngăn chặn âm mưu này nhỉ? Mình nên ra chỗ đống lửa báo cho Kamenodvoski biết và sẽ không nói tên thằng nào cả, chỉ khuyên Liveri đề phòng nguy hiểm”.

Kamenodvoski không còn ở chỗ cũ. Chỉ có viên trợ lý của anh ta đang canh đống lửa sắp tàn để nó khỏi cháy lan ra xung quanh.

Nhưng cuộc mưu hại không xảy ra. Nó đã bị chặn đứng. Thì ra người ta đã biết âm mưu này từ trước. Hôm ấy nó bị khám phá hoàn toàn và những kẻ mưu phản đều bị tóm cổ.

Trong vụ này, Sivoblui sắm vai kẻ hai mặt, vừa theo dõi bọn kia, vừa là kẻ xách động, xúi bẩy bọn kia làm loạn. Bác sĩ Zhivago càng thấy ghê tởm hơn.

Có tin đoàn xe chở thân nhân của anh em du kích chỉ còn cách căn cứ hai chặng đường. Ở Mõm Cáo, mọi người đang chuẩn bị đóng gia quyến và nhổ trại ngay sau đó. Bác sĩ Zhivago đến gặp Palyk.

Chàng thấy anh ta dứng ở cửa lều với cây rìu trong tay. Trước lều có một đống cây bạch dương non đã bị chặt hết cành, nhưng chưa được đẽo mấu. Một số cây được hạ ngay gần lều, nên khi đổ, các cành cây gãy của chúng cắm sâu xuống lớp đất ẩm. Những cây khác, Palyk kéo từ quãng xa về và ném chồng lên trên. Những thân cây bạch dương cứ run rẩy, hơi đung đưa trên những cái cành nhỏ cong mềm hoặc gãy dở, không chạm đất, cũng không chạm vào nhau, tựa hồ chúng đang giơ chân tay đối phó với Palyk, kẻ đã đốn chúng xuống, và chúng chặn lối ra vào lều của anh ta bằng cách dựng lên cả một đống cây xanh.

– Ấy là để chuẩn bị đón các vị khách quý, – Palyk giải thích việc làm của anh ta. – Cả vợ con tôi thì cái lều này sẽ thấp quá. Lại còn bị dột nữa. Tôi sẽ chống mái lều lên bằng đám cọc nhọn kia. Tôi đã chặt khá nhiều cây.

– Anh làm thế chỉ uổng công, Palyk ạ. Anh tưởng người ta sẽ cho vợ con vào ở chung lều với anh à? Có bao giờ người ta để thường dân, đàn bà con nít vào ở lẫn với lính tráng kia chứ? Họ sẽ ở bên ngoài căn cứ, trên xe ngựa.

Lúc rãnh rỗi, mới được phép ra gặp gia đình chứ làm gì, có chuyện ở chung một lều. Song đó không phải là điều cần bàn. Nghe nói anh mỗi ngày một gầy đi, chả ăn uống, ngủ nghê gì có phải không? Trông bề ngoài thì chả thấy sao cả, chỉ tội râu tóc để hơi dài, thế thôi.

Palyk là một tay mugich lực lưỡng, râu tóc đen rối bù, trán nửa lồi nửa lõm như trán đôi, do xương trán quá dày, trông giống một cái đai đồng thít vòng hai bên thái dương anh ta, khiến anh ta thêm vẻ độc ác, và đáng sợ của một kẻ hay gườm gườm liếc xéo nham hiểm.

Hồi đầu cách mạng, do cái gương của năm 1905 người ta sợ rằng cả lần này nữa! Cuộc cách mạng cũng sẽ chỉ là một biến cố ngắn ngủi trong lịch sử các tầng lớp thượng lưu có học, chứ nó không thâm nhập và bám rễ chắc chắn vào các tầng lớp hạ lưu cho nên người ta ra sức tuyên truyền, cách mạng hoá, tác động nhân dân bằng đủ cách và kích động sự giận dữ của họ.

Trong những ngày đầu tiên ấy, những hạng người như anh lính Palyk vốn khỏi cần được vận động đã căm thù ghê gớm tầng lớp trí thức, quý phái và sĩ quan, lại được các trí thức quá tả đề cao lên tận mây xanh và tưởng là những phát hiện hiếm có. Sự phi nhân tính của hạng người ấy được coi là phép lạ của giác ngộ giai cấp, sự dã man của họ là khuôn mẫu về tính cương quyết của giai cấp vô sản và về bản năng cách mạng. Cái vinh danh của Palyk nhờ đó mà được hình thành. Anh ta được cấp chỉ huy du kích và những người đứng đầu tổ chức Đảng đánh giá cao.

Đối với Zhivago thì cái tay mugich lực lưỡng, vẻ mặt cau có và khó giao tiếp này hình như là một phần tử không hoàn toàn bình thường vì cái tính nói chung là tàn bạo, đơn điệu và nghèo nàn và tâm hồn của anh ta.

– Ta hãy vào trong lều, – Palyk đề nghị.

– Không, vào làm gì. Và tôi chẳng leo qua đống cây kia nổi. Ở ngoài này khỏe hơn.

– Được thôi! Tuỳ ý anh. Trong lều đúng như một cái hang thật! Ta ngồi trên bộ ghế băng này vậy (anh ta gọi những cây bị đốn là bộ ghế băng).

Và họ ngồi xuống, các thân cây bạch dương rung rinh dưới sức nặng của hai người.

– Ngạn ngữ có câu: nói dễ, làm khó. Song chuyện của tôi nói cũng chẳng dễ. Kể ba năm chưa hết. Tôi chả biết bắt đầu từ đoạn nào.

Nhưng thôi, tôi cứ thử kể. Vợ chồng tôi sống với nhau, hai đứa đều trẻ cả. Cô ấy trông nom nhà cửa. Tôi làm việc đồng áng, cũng chả có gì đáng phàn nàn. Đẻ mấy đứa con. Rồi bị bắt lính. Bị đày ra mặt trận. Chiến tranh mà. Khỏi phải bàn về chiến tranh. Anh cũng đã ở ngoài mặt trận, anh thừa biết.

Rồi cách mạng bùng nổ. Tôi sáng mắt ra. Binh lính được mở mắt. Lính Đức không phải kẻ thù, mà cũng là những người cần lao như mình. Hỡi những người lính của cách mạng thế giới, hãy hạ súng xuống, hãy bỏ mặt trận về nhà thanh toán bọn tư sản! vân vân. Tất cả những chuyện đó anh thừa biết, được bác sĩ quân y ạ. Vân vân. Rồi nội chiến. Tôi nhập vào đoàn quân du kích. Bây giờ tôi nói vắn tắt, kẻo chả biết bao giờ mới kể xong. Bây giờ tóm lại, tôi thấy gì lúc này? Hắn, con ký sinh trùng ấy, tên ăn bám ấy đã điều hai trung đoàn Stavropol số một và số hai và trung đoàn cô- dắc Orelburg số một từ mặt trận Nga tới vùng này. Tôi có phải là con nít đâu mà không hiểu? Làm như tôi chưa từng ở trong quân đội chắc? Tình hình bên ta gay to, nguy hiểm lắm, bác sĩ ạ. Hắn, cái thằng ăn bám khốn kiếp ấy, hắn muốn gì? Hắn muốn tung toàn bộ lực lượng vừa kể vào trận để tiêu diệt chúng ta. Hắn muốn bao vây chúng ta.

Hiện giờ tôi có vợ và mấy đứa con. Nếu hắn thắng, thì vợ con tôi trốn đi đâu cho thoát tay hắn? Hắn đâu có hiểu rằng vợ con tôi vô tội, chẳng liên quan gì. Hắn sẽ chẳng thèm cứu xét điều đó Vì tôi hắn sẽ trói vợ tôi lại mà tra tấn; để trả thù tôi, hắn sẽ hành hạ vợ con tôi, sẽ giần xương xé thịt vợ con tôi. Thế mà yên lòng ăn uống ngủ nghê được à? Có mà mình đồng da sắt cũng hết chịu nổi.

– Anh kỳ quặc quá, Palyk. Tôi không hiểu anh. Bao năm anh từng xa họ, không biết tin tức gì về họ, anh chả buồn rầu hay làm sao cả. Bây giờ, chỉ nội nhật nay mai anh đã được gặp vợ con, thế mà chả mừng thì chớ, anh lại làm như sắp đưa ma họ vậy.

– Chuyện trước kia với bây giờ khác nhau lắm. Chúng nó đang đánh bại chúng ta, lũ bạch vệ khốn kiếp ấy. Nhưng tôi chả nói về tôi. Đời tôi thế là sẽ đi tong. Chắc chắn sẽ dẫn đến đó thôi Nhưng những người thân yêu của tôi thì tôi sẽ không đem theo sang thế giới bên kia. Họ sẽ rơi vào nanh vuốt tên khốn kiếp… Hắn sẽ rút hết máu của họ, từng giọt từng giọt một.

– Vì thế mà anh thấy ma trơi à? Người ta bảo anh luôn luôn thấy ma trơi.

– Thôi được Tôi chưa kể hết với anh đâu, bác sĩ ạ. Tôi chưa nói chuyện chủ yếu. Nào thì tôi kể, anh hãy nghe toàn bộ sự thực phũ phàng về tôi, và chớ có khó chịu nếu tôi nói thẳng vào mặt anh.

Tôi đã hạ thủ nhiều đứa thuộc loại như anh, tay tôi dính máu của bọn thống trị, bọn sĩ quan, nhưng tôi bất chấp. Bao nhiêu đứa, tên chúng là gì, tôi chẳng nhớ, vì nhiều lắm. Song có một thằng oắt bị tôi giết, cứ ám ảnh tâm trí tôi, tôi không sao quên nổi. Tại sao tôi giết nó? Nó làm tôi buồn cười quá. Tôi bắn nó vì buồn cười hết nhịn nổi, thật là ngu. Chả vì duyên cớ gì hết.

Đó là vào dạo cách mạng tháng hai, dưới thời Kerenski. Đơn vị chúng tôi nổi loạn. Vụ ấy diễn ra trên đường xe lửa, ở một nhà ga. Cấp trên phái một thằng oắt con đến uốn ba tấc lưỡi thuyết phục chúng tôi ra trận, tiếp tục chiến đấu tới thắng lợi cuối cùng. Thằng Kadet 2 ấy trông ốm nhom, ba hoa diễn thuyết với chúng tôi, hô hào chiến đấu đến thắng lợi cuối cùng. Nó nhảy lên một cái thùng nước cứu hỏa để hô to cái khẩu hiệu ấy, cái thùng nước, ở sân ga ấy mà. Nó nhảy lên chỗ đó để cất cao lời kêu gọi xung trận, bỗng cái nắp thùng lật ngược dưới chân nó, khiến nó rơi tõm vào thùng nước, trượt chân mà! Ôi, tức cười khủng khiếp. Tôi cười lăn ra cười bò, tưởng sắp quặn ruột mà chết. Ôi, buồn cười ngoài sức tưởng tượng! Tay tôi ôm súng, tôi cứ cười ngả cười ngớn, và mọi người xung quanh đều cười, cười lăn cười bò vì không nhịn được Y như nó cù tôi vậy. Thế là tôi nâng súng lên và đòm cho nó một phát. Chính tôi cũng chẳng hiểu tại sao lại như thế. Y như có ai đẩy tay tôi vậy.

Đó đó là lý đo khiến tôi nhìn thấy ma trơi. Đêm nào tôi cũng thấy cái nhà ga ấy hiện ra. Hồi ấy tôi buồn cười, bây giờ thấy thương thương nó.

– Có phải ở nhà ga Biriuchi, gần thị trấn Meliuzev, hay không?

– Tôi chả nhớ.

– Các anh nổi loạn cùng với dân Zybusino chứ gì?

– Tôi chả nhớ.

– Thế anh ở mặt trận nào hồi ấy? Ở mặt trận nào? Mặt trận miền phải Tây không?

– Hình như thế. Rất có thể ở miền Tây. Tôi chả nhớ.

1 Một giáo phái xuất hiện ở Nga nửa sau thế kỷ 18, bác bỏ các nghi lễ thần bí của chính thống giáo, thần thánh hoá những người thủ lĩnh công xã. Bị Sa hoàng đàn áp vì không tuân phục chính quyền. Cuối thế kỷ XIX di chuyển sang Cannada.
2 Học sinh trường võ bị.

Trước
image
Chương 11
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!