Đó là những ngày cuối cùng của tháng ba, những ngày ấm áp đầu tiên trong năm khiến người ta lầm tưởng mùa xuân đã tới, thực ra sau những ngày ấy, năm nào trời cũng vậy trời còn rét dữ dội.
Trong ngôi nhà của giáo sư Gromeko, mọi người đang vội vã chuẩn bị lên đường. Đối với tất cả những người mới kéo đến ở đầy các buồng – họ còn đông hơn cả bầy chim sẻ ngoài phố, gia đình Zhivago đã tìm được cách giải thích là mình đang tổng vệ sinh để mừng lễ Phục sinh.
Zhivago phản đối cuộc hành trình này. Chàng không cản trở việc sửa soạn, vì tưởng dự định ấy là viển vông và cứ hy vọng rằng nó sẽ tiêu tan vào phút chót. Nhưng công việc vẫn tiến triển và đã gần xong xuôi. Đã đến lúc phải bàn bạc một cách nghiêm chỉnh.
Trong một buổi họp tay ba của gia đình để bàn việc ấy, một lần nữa bác sĩ Zhivago nói với vợ và nhạc phụ về các mối nghi ngại của mình.
– Vậy là ba và em cho rằng tôi sai và nhất thiết nhà mình phải đi hay sao? – Chàng hỏi sau khi đã đưa ra các ý kiến phản đối.
Tonia lên tiếng:
– Anh bảo chỉ vất vả một hai năm nữa, trong lúc đó các quan hệ ruộng đất mới sẽ được chấn chỉnh tử tế, ta sẽ xin một mẫu đất ở ngoại ô Moskva để trồng rau. Nhưng làm cách nào sống được từ nay cho tới đó, thì anh không nói. Trong khi, đó là điều quan trọng nhất mà ba và em muốn biết ý kiến của anh.
– Một hy vọng hoàn toàn viển vông, – Giáo sư Gromeko ủng hộ con gái.
– Thôi được tôi xin chịu thua, – Zhivago nhượng bộ. – Điều duy nhất khiến tôi băn khoăn là ta chưa biết gì hết về tình hình của Varykino. Cả gia đình liều nhắm mắt đưa chân, tới một nơi xa lạ. Trong số ba người thân từng sống ở Varykino, thì hai người là mẹ và bà đã mất, còn người thứ ba là ông nội Cruyghe có thể đã bị bắt làm con tin, ấy là giả dụ ông cụ còn sống.
Trong năm cuối cùng của cuộc chiến tranh, ông cụ đã giải quyết cánh rừng và nhà máy; để che mắt mọi người, ông cụ giả vờ bán cho một người nào đó hoặc nhà băng, hoặc giả bộ sang tên cho ai đó. Chúng ta biết gì về việc ấy nào? Bây giờ khu trại ấy thuộc về ai, tôi không nói đến văn tự, nó còn hay mất cũng thế thôi mà là chuyện ai chịu trách nhiệm vể khu trại kia?
Chúng thuộc quyền kiểm soát của cơ quan nào? Người ta có chặt cây không? Các nhà máy có hoạt động không? Cuối cùng chính quyền địa phương thuộc phe nào và sẽ ra sao khi nhà ta lần được tới đó.
Đối với ba và em, chỗ dựa chắc chắn là ông Mikulinsyn, người mà ba và em cứ luôn nhắc tới. Nhưng ai nói với ba và em rằng ông quản lý già ấy hiện vẫn sống ở Varykino? Và ta biết gì về Mikulinsyn, trừ một điều là ông nội phải vất và khi đọc họ tên ông ta, mà cũng chính vì thế nên ba và em mới nhớ được cái tên đó?
Nhưng thôi, tranh luận thêm chăng ích gì! Ba và em đã quyết định đi thì tôi đi theo vậy. Bây giờ cần xác định rõ xem ta di chuyển như thế nào. Chả nên trì hoãn làm gì.
Zhivago ra ga Yaroslap để hỏi cho biết các thể thức. Từng đoàn hành khách nối đuôi nhau dài dằng dặc, bị chặn lại giữa hai hàng rào chắn đặt ngang các phòng đợi. Ngay dưới sàn đá có những người mặc áo capốt màu xám nằm ngổn ngang, chốc chốc lại trở mình, ho và khạc nhổ; mỗi khi nói gì với nhau, họ lại cất giọng oang oang, quên rằng trần nhà khum khum dội lại tiếng nói khá mạnh.
Phần lớn đấy là những người mới qua cơn bệnh sốt phát ban. Vì các bệnh viện quá đông, nên ngay sau khi thoát được giai đoạn trầm trọng, họ liền bị đẩy ra khỏi bệnh viện. Là bác sĩ Zhivago cũng từng phải làm cái việc bất đắc dĩ ấy, song chàng không ngờ số người bất hạnh này lại đông đế thế và các nhà ga lại là chốn nương thân của họ.
– Ông phải kiếm một tờ công lệnh, – một bác phu khuân vác đeo tạp dề trắng bảo Zhivago. – Ngày nào cũng phải ra đây mà hỏi xem có tàu không. Dạo này hiếm khi mới có một chuyến, đó là vấn đề may rủi. Và tất nhiên phải có cái khoản này (bác ta xoa xoa ngón tay cái vào hai ngón bên cạnh)… Một ít bột mỳ hay một thứ gì đó… Không lót tay thì chớ hòng lên được tàu. Riêng cái khoản này (bác ta búng vào cổ họng mình)… chắc chắn quý hơn vàng.
Khoảng gần thời gian đó, giáo sư Alexandr Gromeko được mời đến dự mấy cuộc tham khảo ý kiến ở Hội đồng kinh tế quốc dân Tối cao, còn bác sĩ Zhivago thì được mời đến thăm bệnh cho một vị bộ trưởng bị ốm nặng. Cả hai cha con đều được trả công dưới hình thức hay nhất thời ấy là phiếu mua hàng ở cửa hàng cung cấp duy nhất mới mở.
Cửa hàng này được bố trí trong dãy nhà kho của quân đội gần tu viện Simonov. Hai cha con giáo sư đi qua hai cái sân, sân tư viện và sân của trại lính, rồi bước ngay xuống dưới vòm đá của một tầng hầm sau và mỗi lúc một thấp.
Phần cuối cùng tầng hầm mở rộng dần, có một quầy hàng chạy suốt từ tường bên này sang tường bên kia. Đứng sau quầy là một viên thủ kho vẻ mặt thản nhiên, dáng điệu thong dong. Chốc chốc ông ta lại bỏ quầy vào kho, đem hàng ra cân đong hoặc đếm, và mỗi lần giao hàng lại dùng bút chì gạch một đường dài xoá tên món hàng kê trong tem phiếu. Người đến nhận hàng không nhiều.
– Đồ đựng của hai đồng chí đâu? – viên thủ kho vừa hỏi hai cha con giáo sư, vừa lướt mắt nhìn qua các tấm tem phiếu của họ. Hai cha con trố mắt ngạc nhiên, khi viên thủ kho trút vào mấy cái áo gối mà họ giơ ra nào là bột mì, bột tấm, mì ống, đường, mỡ muối, nào là xà bông, diêm và còn đưa mỗi người một mẩu gì đó gói giấy, mà về nhà giở ra mới biết là món phomát Kavkaz.
Hai cha con vội vàng nhét tất cả các túi nhỏ ấy vào trong hai chiếc đẫy lớn, họ làm thật nhanh để khỏi gây khó chịu cho viên thủ kho đã quá ư rộng lượng tặng họ ngần ấy thứ hàng.
Họ rời tầng hầm đi ra ngoài sân với tâm trạng ngây ngấy say sưa, không phải vì niềm vui sướng của loài vật, vì họ ý thức rằng mình không đến nỗi sống vô dụng trên cõi đời này, họ cũng có giá trị và chắc chắn sắp được cô nàng nội trợ Tonia khen ngợi và công nhận khi về tới nhà.
Trong khi hai người đàn ông chạy đôn chạy đáo đến các cơ quan xin công lệnh và các chứng thư công nhận chủ quyền các căn phòng mà họ sắp rời bỏ, thì Tonia lo lựa chọn các đồ dùng để gói ghém lại.
Nàng bận rộn đi đi lại lại trong ba căn phòng bây giờ chính thức đứng tên gia đình Gromeko, nhắc thử lên tay cân lượng chán chê từng đồ vật dùng vặt vãnh trước khi đặt vào đống hành lý sẽ đem theo hoặc gói bọc lại.
Chỉ một phần số nhỏ tài sản được xếp vào hành lý cá nhân, phần còn lại được xếp riêng để đổi lấy những thứ cần dùng trong cuộc hành trình và trong những ngày đầu tiên ở chỗ mới.
Một làn gió xuân hiu hiu lọt qua cửa sổ thông gió bỏ ngỏ, đưa vào phòng mùi bánh mì trắng vừa được cắt. Từ bên ngoài vọng vào tiếng gà gáy và tiếng trẻ em nô đùa. Càng cố làm cho căn phòng thoáng khí bao nhiêu, thì càng thấy rõ mùi băng phiến nực lên từ đống quần áo rét vừa lôi trong hòm ra bấy nhiêu. Về vấn đề lựa đem đi thứ gì và bỏ lại thứ gì, có hẳn một lý thuyết do những người đã ra đi soạn thảo và được đám bằng hữa của họ còn ở lại Moskva lưu truyền và tuân theo.
Các nguyên tắc của lý thuyết ấy, được diễn tả thành những chỉ dẫn ngắn gọn, dứt khoát, bất di bất dịch, đã in sâu trong óc Tonia đến nỗi nàng tưởng chừng đang nghe thấy chúng vọng vào từ ngoài sân cùng với tiếng chiếp chiếp của bầy chim sẻ và tiếng ồn ào của đám trẻ nô đùa, như có một giọng nói bí mật gợi nhắc cho nàng nhở đến các chỉ dẫn ấy.
“Vải vải vóc – lời chỉ dẫn đã nói, – tốt nhất nên xé lẻ ra, nhưng dọc đưởng vẫn bị lục soát nguy hiểm. Khôn ngoan thì đem khâu lược các tấm, làm bộ đang may dở. Nói chung có thể mang các thứ vải vóc, kể cả quần áo, loại mặc ngoài thì hơn, và chưa quá cũ. Tuyệt đối không mang những thứ nặng. Rất hay phải bê vác tất cả các thứ hành lý để chuyển chỗ, chớ dùng va li và giỏ lớn. Số hàng lý sau khi đã cân nhắc hàng trăm lần, thì cất gọn vào các tay nải mà một phụ nữ hoặc đứa trẻ cũng mang nổi. Thực tế chứng tỏ muối và thuốc là hai thứ sinh lợi, tuy khá nguy hiểm. Tiền thì nên dùng tiền Kerenski 1.
Phiền phức nhất là các, thứ giấy tờ cá nhân, vân vân và vân vân.
Hôm trước ngày họ ra đi, có một trận bão tuyết. Những đám mây bông tuyết màu xám quay lộn bị gió thổi thốc lên trời rồi lại xoáy tròn xuống đất thành cơn lốc trắng, bay mất hút về phía cuối đường phố tối tăm và choàng lên vạn vật một tấm màn trắng.
Toàn bộ hành lý đã được gói ghém xong xuôi. Ba gian phòng và số tài sản để lại được giao cho một cặp vợ chồng già là bà con của chị Egorovna ở Moskva trông nom. Mùa đông năm ngoái, Tonia đã làm quen với họ, nhờ họ môi giới tiêu thụ số đồ dùng, quần áo cũ và mấy thứ đồ gỗ không cần đến để đổi lấy củi và khoai tây., Về phần Macken thì không thể trông cậy được nữa. Trong ngành công an mà bác ta đã chọn lựa làm câu lạc bộ chính trị của mình, bác ta tuy không tố cáo rằng các ngài chủ cũ, tức gia đình Gromeko, đã hút máu hút mủ bác ta, song vẫn gián tiếp trách họ đã kìm giữ bác ta trong vòng u mê suốt bao nhiêu năm, bằng việc cố ý giấu không cho bác ta biết nguồn gốc loài người là từ khỉ mà ra.
Tonia dẫn đôi vợ chồng già, bà con họ hàng của Egorovna (người chồng từng làm nhân viên một hãng buôn), đi xem các phòng lần cuối cùng, chỉ cho họ biết chìa khoá nào tra vào ổ nào, thứ nào đặt ở đâu; cùng họ mở dóng tất cả các cánh cửa tủ, các ngăn kéo; hướng dẫn và giải thích mọi việc cho họ. Bàn ghế đã được đẩy vào sát tường, các rèm cửa sổ đều được gỡ xuống, các tay nải hành lý đã được xếp vào một góc.
Không còn bị che chắn bởi các thứ rèm, bão tuyết tự do tràn qua cửa sổ vào các căn phòng gần như trơ trụi, gợi nhắc mỗi người các nỗi buồn dĩ vãng. Zhivago nhớ đến thời thơ ấu và cái chết của mẹ chàng, hai cha con Tonia thì nhớ đến cái chết và đám tang bà Anna Ivanovna. Tất cả mọi thứ đều gợi cho họ cảm giác rằng đây là đêm cuối cùng họ sống trong căn nhà mà họ sẽ chẳng bao giờ còn thấy lại. Về điểm này, họ đã lầm, nhưng dưới ảnh hưởng của cảm giác lầm lẫn mà họ không ngỏ cho người khác, sợ làm người khác buồn láy ấy, mỗi người đều thầm điểm lại cuộc sống dưới mái nhà này và đều cố giữ cho những giọt lệ đang dâng lên khóe mắt khỏi trào ra.
Điều đó không ngăn cản Tonia giữ phép lịch sự với hai ông bà già. Nàng luôn miệng trò chuyện với bà vợ là người được nàng giao phó cho việc trông giùm nhà cửa. Nàng đề cao ý nghĩa của việc bà kia nhận giúp đỡ trong thời ờơian gia đình nàng đi vắng. Để khỏi tỏ ra vô ơn, chốc chốc nàng lại xin lỗi sang phòng bên lúc thì lấy tấm khăn vuông, lúc thì chiếc áo bỉu, lúc thì mảnh vải xita hoặc sa đen đem tặng người đàn bà đó. Và tất cả các thứ vải vóc ấy đều sẫm màu, kẻ ca rô hoặc chấm trắng, như phố xá tối sẫm, lấm tấm những bông tuyết trắng ngoài kia đang nhìn vào đêm ly biệt qua các cửa sổ không rèm.
Họ ra ga vào lúc chớm bình minh. Vào giờ này, bà con sống trong khu nhà chưa thức dậy. Riêng bà Devorotcaia, một người ưa khởi xướng các công việc tập thể, hôm nay dậy sớm, chạy khắp các phòng, vừa gõ cửa vừa hét:
– Các đồng chí chú ý! Dậy chia tay thôi! Lẹ lên! Vui vẻ lên nào! Gia đình Gromeko chủ cũ sắp lên đường rồi?
Người ta ùa xuống cầu thang sau (cầu thang trước đã khoá lại không sử dụng cả năm nay), đổ xô ra thềm và đứng đầy các bậc lên xuống xây theo kiểu hình vòng cung, như thể họ sắp chụp chung một bức ảnh.
Người nào người nấy đứng ngáp dài, co ro trong những chiếc áo bành- tô mỏng vừa khoác vội lên vai, cứ khom khom cho áo khỏi tuột xuống, và để bớt lạnh, họ cứ giậm giậm hai bàn chân không kịp đi tất, xỏ vội vào đôi ủng rộng.
Macken đã mò đâu được thứ chất cay ghê gớm gì không biết giữa thời buổi hiếm rượu này, bác ta say bí tỉ, cúi gập người, vào tay vịn cầu thang, xem chừng dễ làm nó bị đổ ụp xuống. Bác ta xin được vác hành lý ra ga và lấy làm tự ái khi bị từ chối. Phải vất vả mới gạt được bác ta ra.
Trời vẫn còn tối và lặng gió, tuyết rơi dày hơn đêm qua.
Những bông tuyết lớn và xốp cứ bay lơ lơ lửng lửng gần mặt đất như lưỡng lự chưa biết có nên rơi hẳn xuống hay không.
Khi họ ra tới đường Arbat, trời bắt đầu sáng hơn một chút. Tuyết đã phủ một tấm mân lùng nhùng màu trắng trên mặt đường, mép dưới của tấm màn ấy cứ quấn lấy chân người qua lại đến nỗi họ mất cảm giác chuyển dịch và tưởng như mình đang giẫm chân tại chỗ.
Ngoài phố không một bóng người, trừ gia đình Zhivago. Lát sau có chiếc xe ngựa đuổi kịp họ. Bác đánh xe cuộn tròn trong lớp tuyết, con ngựa cũng trắng như tuyết. Vởi một giá rẻ ngoài sức tưởng tượng, chưa đáng một kopeik thời đó, bác đánh xe xếp cả gia đình cùng hành lý lên xe, chở ra ga, trừ bác sĩ đề nghị để chàng đi bộ người không.
Ở ngoài ga, hai con Tonia đã giành được chỗ đứng xếp hàng giữa một đoán người dài dằng dặc, ken sát nhau trong hai hàng rào chắn bằng gỗ. Bây giờ người ta không cho lên tàu ở ngay sân ga, mà cách chỗ ấy đến nửa dặm, ngay giữa đường sắt cạnh cột báo hiệu ra vào, bởi vì không đủ nhân công quét dọn các đường vào sân ga, một nửa khu vực phụ cận của nhà ga bị băng tuyết và rác rưởi bao phủ nên các đầu máy xe lửa không thể chạy tới bến đậu.
Niusa và bé Xasa không đứng với Tonia, mà thơ thẩn ở phía ngoài, dưới mái hiên rộng thênh thang của cổng ga, thỉnh thoảng mới lại gần xem đã đến lúc nhập vào dòng người xếp hàng hay chưa. Hai cô cháu sặc sụa mùi dầu hôi bôi khắp cổ, khuỷu tay và mắt cá chân để chống rệp truyền bệnh sốt phát ban.
Thấy chồng đang đi tới, Tonia giơ tay vẫy vẫy, nhưng khi chàng tới gần, thì nàng hét to bảo chàng phải tới cửa nào để đóng dấu vào công lệnh. Chàng bèn đến đó.
Lúc chàng quay trở lại, Tonia nói:
– Đưa em xem họ đóng các dấu gì nào.
Zhivago chìa qua hàng rào gỗ cả một xấp giấy gấp đôi.
– Có dấu này thì được đi tàu dành cho các đại biểu hội nghị kia đấy, – một người đứng sau Tonia nhìn qua vai nàng, nhận biết con đấy đóng trên tờ công lệnh, liền lên tiếng?
Còn người đứng trước nàng có vẻ thông thạo các thể thức pháp lý áp dụng trong mọi hoàn cảnh trên đời, thì giải thích tỉ mỉ hơn.
– Với con dấu này, các vị có quyền đòi chỗ ngồi trên toa thượng hạng, nói cách khác là trên toa chở khách, nếu có những toa như thế trong một đoàn tàu.
Vấn đề được tất cả những người đứng xếp hàng đem ra thảo luận. Nhiều tiếng nói nhao nhao:
– Này các vị có công lệnh ơi, chớ tin lời họ. Để tôi giảng cho mà nghe. Thời nay hết các chuyến tàu dành riêng rồi, chỉ còn mỗi một hạng thôi. Lính tráng, tù nhân, súc vật với người cùng đi chung với nhau, chung tuốt tuồn tuột. Nói thì dễ, nói thể nào chả được, lưỡi không xương mà lại, nhưng đừng lừa phỉnh người ta, phải cắt nghĩa cho rõ ràng chứ.
– Thế mà cũng đòi cắt nghĩa! Vớ được một ông giỏi giang gớm! Có công lệnh, có dấu triện mới xong phân nửa. Ông hãy mở mắt ra mà nhìn họ một chút đã, rồi hãy cắt nghĩa. Thử hỏi với diện mạo như thế kia, họ có thể lên toa đại biểu được chăng? Toa ấy toàn là các “tay anh chị”, các thuỷ binh, mắt tinh, tai thính, súng lục kè kè bên hông. Họ nhìn thấy ngay ông bác sĩ thuộc giai cấp hữu sản, dòng dõi ông chủ ngày trước. Một gã thuỷ binh rút ngay súng lục, đoàng cho một phát là xong đời bác sĩ!
Chẳng rõ chuyện ông bác sĩ và gia đình ông ta sẽ kéo dài tới bao giờ, nếu không có chuyện bất ngờ xảy ra.
Trong đám đông, từ lâu, nhiều người vẫn nhìn về phía xa, qua lớp kính dày trên các cửa sổ lớn của nhà ga. Mái hiên chìa ra của sân ga kéo dài đến hết mức cảnh tượng tuyết rơi trên các tuyến đường sắt. Trông xa hình như các bông tuyết cứ lơ lửng mãi trong không trung và đáp xuống đất rất từ từ, y hệt các mẩu bánh mì vụn ném xuống cho cá, đang thong thả chìm dần trong nước.
Tít mãi đằng xa ấy, từ lâu đã thấy có các bóng người đi thành tốp hay lẻ tẻ dọc đường tầu. Khi số người ấy chưa đông, bóng họ mờ lẫn trong màn tuyết rung rung, khiến người ta tưởng đấy là các nhân viên hoả xa đang làm phận sự. Nhưng kìa, cả một đám đông kéo ùa về phía xa, nơi vừa xuất hiện một đầu máy xe lửa đang phun khói.
– Mở cửa ra, quân lừa đảo? – đoàn người xếp hàng la lớn, rùng rùng chuyển dịch về phía cửa lớn, kẻ đứng sau xô người đằng trước.
– Nhìn kìa, chúng nó làm gì đàng kia kìa! Họ quây cánh ta cả đống ở đây, trong khi ở đằng kia chúng nó đi vòng ra tàu, chẳng phải xếp hàng xếp họ gì ráo! Chúng nó sắp tràn lên kín tận nóc toa, còn cánh ta thì cứ đứng chôn chân ở đây như một bầy cừu? Mở cửa ra, quân chó đẻ, kẻo chúng tao đập bể ra bây giờ! Ê, anh em em, bà con ơi, dấn lên, xông bừa lên đi!
Anh chàng thông thạo thể thức pháp lý nói:
– Các người ngu vừa vừa chứ, các người có biết đang ghen tị với ai không? Đấy là đám người bị cưỡng bức lao động, từ Petrograd đến đây. Đáng lẽ họ bị đưa đi Vologoda, lên mặt trận phía Bắc nhưng bây giờ lại bị đẩy sang mặt trận phía Đông. Sung sướng cái nỗi gì đâu. Họ bị áp giải đi đào chiến hào đấy mà.
Tàu chạy đã ba ngày, song vẫn chưa xa Moskva là mấy. Hai bên đường là cảnh mùa đông đơn điệu: đường ray, đồng ruộng, rừng cây, làng xóm – tất cả đều chìm trong tuyết.
Gia đình Zhivago may mắn chiếm được mấy tấm gỗ ván nằm, kề cao trong góc phía trái, đầu toa, gần một cửa sổ nhỏ lắp kính đục mờ, hình chữ nhật. Họ cô thể ở đó trọn gia đình, khỏi phải xa nhau mỗi người một chỗ.
Lần đầu tiên trong đời, Tonia phải ngồi toa xe lửa chở hàng. Lúc lên tàu, Zhivago phải xốc vợ và Niusa lên ngang sàn toà, chỗ có một cái cửa rất nặng chạy dọc trong khe trượt. Còn sau đó, dọc đường, hai người phụ nữ đã học được cách leo lên tụt xuống một mình.
Thoạt đầu, Tonia thấy các toa xe giống như cái chuồng bò lưu động. Những cái chuồng này, nàng nghĩ, chỉ cần động mạnh hoặc bị lắc một cái là sẽ bung ra. Nhưng đã sang ngày thứ ba hết bị lắc ngang lại lắc dọc khi con tàu thay đổi tốc độ hoặc khi đến chỗ quẹo, đã ba ngày luôn luôn nghe các trục bánh xe thi nhau gõ như những cái dùi của chiếc trống đồ chơi có dây cót, vậy mà cuộc hành trình vẫn yên ổn và chẳng có gì chứng minh nỗi lo ngại của Tonia.
Ở các ga xép, chuyến tàu dài những hai mươi ba toa này (gia đình Zhivago ngồi ở toa số mười bốn), chỉ có khúc đầu, khúc giữa hoặc khúc cuối là đậu trong sân ga quá ngắn.
Các toa đầu dành riêng cho binh lính, các toa giữa – cho dân chúng, các toa cuối gồm những người bị cưỡng bức lao động.
Những hành khách thuộc loại thứ ba đông ngót năm trăm người, đủ mọi lứa tuổi, giai cấp và nghề nghiệp khác nhau.
Tám toa chở họ bày ra một cảnh tượng đầy màu sắc. Bên cạnh những người giàu có ăn mặc chỉnh tề, những nhà chứng khoán và luật sư ở Petersburg, có thể thấy những người bị liệt vào giai cấp bóc lột như phu xe thuộc loại ác ôn, các lao công cọ sàn nhà những kẻ điên lang thang do các nhà thương điên bị giải thể, các nhà tiểu thương và các tu sĩ.
Những người thuộc nhóm thứ nhất ngồi xung quanh các bếp lò đỏ rực, trên các khúc củi cưa ngắn để dựng đứng, không mặc áo ngoài, cứ nói chuyện như bắp rang và cười ấm ĩ. Đấy là những người có nhiều chỗ quen thuộc. Họ chẳng buồn phiền. Ở kinh thành, những họ hàng bà con có thế lực đang chạy chọt cho họ. Cùng lắm thì họ sẽ chuộc được tự do sau vài chặng nữa trong cuộc hành trình.
Những người thuộc nhóm thứ hai đi ủng và mặc áo caphtan không cài khuy mặc áo sơ mi bỏ ra ngoài quần, chân không đi giày, râu ria xồm xoàm hoặc không có râu, đứng cạnh các cửa toa mở hé cho đỡ ngột ngạt, tay bám vào mép cửa hoặc những cái đòn gỗ đóng ngang khung cửa, cau có nhìn các thôn xóm ven đường, nhìn dân quê các làng và chẳng trò chuyện cùng ai. Họ không có những người quen biết lo chạy chọt giúp họ. Họ chẳng có gì để hy vọng.
Không phải tất cả những người ấy đều đủ chỗ ở các toa dành riêng cho họ, nên số thừa ra được bố trí vào khúc giữa đoàn tàu lẫn với các hành khách tự do. Toa số mười bốn cũng có mấy người như thế.
Thường thường, mỗi khi tàu sắp đến một nhà ga, Tonia lại nhổm dậy ở một tư thế bất tiện, vì cái trần toa quá thấp khiến nàng không thể cử động thoải mái, nàng thò đầu xuống nhìn qua khe cửa toa mở hé, xem nơi tàu đỗ có gì đáng chú ý về phương diện trao đổi hàng hoá, xem có đáng cất công xuống khỏi ván mà ra ngoài hay không.
Lần này cũng vậy. Tàu chạy chậm lại khiến nàng đang ngủ lơ mơ vội vàng choàng dậy. Con tàu qua nhiều trạm bẻ ghi mỗi lúc ấy tàu lại xóc nảy lên kèm theo nhiều tiếng lọc cà lọc cọc chứng tỏ đây là một ga lớn và tàu sẽ đỗ lâu.
Tonia khom người ngồi dậy, giụi mắt, vuốt lại tóc rồi thọc tay vào đáy một cái tay nải đựng đồ, nàng lấy ra một chiếc khăn bông có in hình những chú gà trống, những chàng trai nhà quê, những cây cung và các bánh xe.
Lúc đó Zhivago cũng đã thức dậy, tụt xuống sàn tàu trước và đỡ vợ xuống theo.
Tàu đã qua các chòi canh, các cột đèn và, qua khe cửa toa, có thể thấy những cây cối trong ga, trĩu nặng dưới các tảng tuyết đang trôi về phía sau. Các cành cây như chìa bánh mì và muối về phía đoàn tàu để chào mời. Tàu còn chạy khá nhanh, song đám thuỷ binh đã nhảy túa xuống lớp tuyết chưa có dấu…, chân ở sân ga. Họ chạy vượt tất cả mọi người về phía góc nhà ga, nơi thường có những người đàn bà núp sau tường, bán các thứ đồ ăn bị cấm.
Bộ đồng phục màu đen của đám lính thuỷ, những dải mũ., bay lất phất và các ống quần loe rộng bên dưới của họ làm cho., bước chân của họ thêm mau lẹ và hùng dũng, buộc người ta phải tránh dạt ra như tránh những vận động viên trượt tuyết hay trượt băng đang lao hết đà.
Đằng sau góc nhà ga, người nọ nấp sau người kia, hồi hộp như đang chìa tay xem bói, những người phụ nữ từ các làng lân cận tới xếp thành từng dãy dài, mang theo nào là dưa leo, sữa đông, nào là thịt bò hầm và bánh mì đen, giữa trời rét buốt mà vẫn còn nóng và thơm nhờ được bọc trong các tấm dạ.
Các bà có tuổi, các cô gái chít khăn, mặc áo lông ngắn, mặt đỏ như gấc vì lời chọc ghẹo của mấy chàng lính thuỷ. Đám phụ nữ cũng sợ cánh lính thuỷ như cọp, bởi vì người ta vẫn tuyển lựa trong cánh lính thuỷ những nhóm cán bộ chống đồng cơ buôn lậu và chống buôn bán tự do.
Sự bối rối của đám phụ nữ kéo dài không lâu. Tàu đã dừng lại. Các hàng khách còn lại cũng đã tuôn đến. Dân với lính lẫn vào nhau. Cảnh mua bán bắt đầu nhộn nhịp.
Tonia di vòng một lượt đám phụ nữ bán hàng, chiếc khăn bông vắt trên vai như thể nàng đi ra sân sau ga rửa mặt bằng tuyết Từ các dãy đã mấy lần có tiếng gọi nàng:
– Này cô mình, cái khăn kia bao nhiêu thì bán đấy?
Nhưng Tonia không dừng bước, cứ đi tiếp với chồng.
Đến cuối dãy có một bà chít khăn vuông đen thêu cành lá màu đỏ. Bà ta nhìn thấy tấm khăn bông của Tonia thì mắt sáng lên dạn dL Bà ta nhìn quanh, biết chắc không có gì đe doạ nguy hiểm, bèn nhanh chóng tiếp cận Tonia và mở món hàng của mình ra, thì thào với Tonia bằng cái giọng liến thoắng rất hăng hái:
– Nhìn mà xem này. Cô chưa được thấy món này đâu.
– Không thích à? Nào thôi đi, đừng có trù trừ, kẻ khác chộp mất bây giờ. Đưa tôi cái khăn rồi cầm lấy món quay này di.
Tonia không hiểu mấy tiếng cuối cùng. Nàng ngỡ bà kia định đưa mình món quà gì, nên hỏi lại:
– Bà chị bảo sao?
Cái mà bà kia gọi là “món quay” là một nửa con thỏ chặt dọc và được rán hoàn toàn từ đầu đến đuôi. Bà ta cầm khúc đuôi giơ lên và nhắc lại:
– Tôi bảo đưa khăn cho tôi và cầm lấy món quay này đi.
– Cô nhìn gì kỹ vậy? Không phải thịt chó đâu. Chồng tôi là thợ săn mà. Thịt thỏ rừng, đúng thịt thỏ rừng đấy!
Đôi bên trao đổi hàng, bên nào cũng tưởng mình vở được món hời, còn bên kia thì bị thiệt to. Tonia tự lấy làm xấu hổ vì mình đã lợi dụng một người đàn bà nhà quê nghèo khó. Còn bà kia thì mừng rơn vì được tấm khăn, vội vàng chuồn cho mau khỏi chốn tội lỗi này, rủ theo chị hàng xóm cũng đã bán hết hàng, và cả hai cùng trở về làng theo vệt đường tuyết có nhiều dấu chân tít ra đằng xa.
Lúc ấy, giữa đám đông có chuyện lộn xộn. Một bà già kêu to:
– Ơ hay, đi đâu thế, cái nhà cậu kia? Trả tiền đã chứ? Cậu trả tôi hồi nào, đồ bất lương? Bà con nhìn thằng khốn nạn kìa, mình gọi rát cổ mà nó cứ đi không buồn ngoảnh lại. Đứng lại, tôi bảo đứng lại ngay, thưa ngài đồng chí!
Cứu tôi với! ăn cướp! Nó cướp của tôi! Nó đấy, nó đấy, bắt lấy nó!
– Nó mặc cả mãi của bà cụ mấy cái bánh và chai sữa, nó tọng căng bụng rồi tếch luôn. Đấy, bà cụ đang khóc lóc kia kìa.
– Không thể để nó làm như vậy… Phải tóm cổ nó.
– Có giỏi cứ đi mà bắt. Nó đeo hàng mấy băng đạn trên người thế kia. Nó bắt mình thì có.
Toa số mười bốn có mấy người bị cưỡng bức đi lao động do binh nhì Voroniuc áp giải. Trong đó có ba người bị cưỡng bức vì lý do khác nhau. Một, nguyên là nhân viên thu ngân ở một tiệm rượu đoan tại Petrogad, tên là Prokhe Kharitonovich Pritulev, mọi người trong toa gọi là “ông két”; một cậu bé làm công cho một tiệm bán đồ sắt, mới mười sáu tuổi tên là Vasia Brykin, và nhà cách mạng theo phong trào hợp tác tóc bạc phơ, tên là Kostet- Amuaski, người trải qua đủ dạng lao động khổ sai của chế độ cũ và đang khai trương chuỗi trại cải tạo của chính thể mới.
Tất cả những người này đều xa lạ với nhau, đều bị chộp ở các nơi khác nhau và mới làm quen với nhau trong khi đi đường. Qua các cuộc trò chuyện trên toa, mới biết rằng nhân viên thâu ngân Pritulev và cậu thiếu niên tập sự bán hàng ở Vasia là đồng hương, cùng sinh ra ở tỉnh Vyatka, hơn nữa, chẳng mấy chốc đoàn tàu này sẽ chạy qua làng quê của họ.
Pritulev sinh sống ở thành phố Manmys, người thấp và mập, tóc húi của, mặt rỗ, xấu xí. Chiếc áo kiten màu xám của anh ta, đen xỉn ở hai hên nách vò mồ hôi trông chặt căng ở ngực, y như loại áo sarafan bó chặt lấy bộ ngực đầy của người phụ nữ. Anh ta cứ ngồi trầm tư mặc tưởng hàng giờ như bụt mọc, gãi đến sứt da rớm máu các mụn tàn nhang ở tay đến nỗi chúng sưng lên và làm mủ.
Một hôm, vào mùa thu năm ngoái, anh ta đang đi trên đại lộ Nepski, đến góc phố Lichaynyi (Lò Đúc) thì sa vào cuộc vây ráp. Người ta hỏi giấy tờ của Pritulev. Anh ta chỉ có cái tem lương thực loại lớn, loại phát cho các phần tử phi lao động và chẳng bao giờ có thể dùng để mua thứ gì. Anh ta liền bị bắt giữ cùng với nhiều người khác ở giữa đường phố cũng vì lý do ấy và bị đưa đi đào chiến hào ở mặt trận Arkhanhen. Lần này, đám người này bị đưa tới Vologoda theo dự tính ban đầu, nhưng đi nửa đường thì người ta đổi hướng, gửi về Moskva để điều sang mặt trận phía Đông.
Pritulev có vợ ở Luga, nơi anh ta làm việc trước chiến tranh, trước khi chuyển đến Petersburg. Tình cờ biết được nỗi bất hạnh của chồng, chị ta liền bỏ đi Vologoda tìm kiếm để chạy chọt cứu anh ta thoát khỏi đội quân lao công chiến trường, nhưng đoàn người đã quẹo sang ngả khác, tung tích lẫn lộn, chị ta chẳng biết đâu mà tìm. Công sức chị ta bỏ ra là công cốc.
Tại Petersburg, Pritulev chung sống với một phụ nữ tên là Pelaghea Nilovna Chiagunova. Anh ta đã bị bắt trên đại lộ Nepski sau khi vừa chia tay với chị này ở góc phố, để đi lo công chuyện ở một phố khác. Nhìn xuống phố Lichaynyi, anh ta còn thấy lưng chị ta đi xa dần, rồi khuất hẳn giữa đám đông qua lại.
Chị nàng Chiagunova này là một phụ nữ tiểu tư sản béo mập, dáng điệu chững chạc, có hai bàn tay đẹp và một bím tóc đuôi sam to dày mà chị ta cứ luôn luôn hất qua vai phải lại qua vai trái ra trước ngực, kèm theo những liếng thở dài sườn sượt. Chị ta tự nguyện đi theo Pritulev và đang có mặt bên anh ta.
Thật khó mà biết hai người đàn bà kia đeo bám Pritulev vì tìm thấy có gì đáng lôi cuốn ở một anh chàng xấu trai nhường ấy. Ngoài Chiagunova, ở một toa gần đầu tàu, chẳng biết tình cờ thế nào lại có một người quen khác của Pritulev tên là Ogryskova, một thiếu nữ tóc bạch kim, gày gò, mà Chiagunova gọi là “ả mũi hếch” và “cái ống tiêm” cùng hàng loạt biệt hiệu khác để hạ nhục cô ta.
Hai tình địch căm tức nhau và cố tìm cách tránh mặt nhau. Ogryskova chưa lần nào ló mặt đến toa số mười bốn. Cô nàng đã làm cách nào khôn khéo để tái ngộ đối tượng say đắm của mình? Đó vẫn là điều bí mật. Có lẽ cô nàng chỉ đành đứng ngắm anh chàng từ xa, mỗi khi tất cả mọi người trên tàu phải xuống chất củi và than lên tàu.
Chuyện của Vasia thì khác. Cha cậu bị chết ngoài mặt trận. Mẹ cậu gửi cậu từ làng ra học nghề ở nhà ông cậu tại Petersburg.
Ông cậu có một cửa hàng đồ sắt ở khu Aprasin. Mùa đông vừa rồi, ông bị gọi đến trụ sở Xô viết quận để tường trình về việc kinh doanh của mình. Thay vì vào cái phòng có tên ghi trong giấy gọi, ông lại bước nhầm vào phòng khác. Tình cờ đấy là phòng tiếp nhận nghĩa vụ lao động. Trong phòng rất đông người. Khi dân chúng tụ tập ở đó theo giấy triệu tập đã khá đông, thì một tốp chiến sĩ Hồng quân đến vây họ lại và giải về trại lính Semenov cho ngủ một đêm, sáng hôm sau điệu họ ra ga và đẩy lên chuyến tàu chạy đi Vologoda.
Tin tức về cuộc bắt giữ nhiều người như thế lan đi khắp thành phố. Sáng hôm sau, gia đình họ kéo nhau ra ga để chia tay với người thân, trong số những người ra tiễn có Vasia và bà mợ.
Ở ngoài ga, ông cậu khẩn khoản xin người lính gác cho ông qua tấm lưới sắt một phút để gặp vợ. Anh lính ấy chính là người hiện đang áp giải nhóm lao động cưỡng bức ở toa số mười bốn này – anh chàng Voroniuc. Voroniuc đòi phải có bảo đảm chắc chắn là ông cậu sẽ quay lại, bèn đề nghị anh lính nhận đứa cháu làm con tin. Voroniuc đồng ý. Vasia bị đưa vào trong vòng quây, ông cậu được ra ngoài. Song vợ chồng ông cậu không trở lại nữa.
Khi sự đánh lừa bị phát giác, Vasia không ngờ vực chút gì về việc đó bèn oà lên khóc. Cậu lăn lộn dưới chân Voroniuc, hôn lấy hôn để hai tay anh ta, van xin anh ta thả cậu ra, nhưng vô ích. Người lính canh vẫn lạnh như tiền, không phải vì tàn ác. Tình hình thì nghiêm trọng, kỷ luật rất gắt gao. Người áp giải phải đem mạng sống ra để chịu trách nhiệm về số người trong danh sách được giao cho anh ta. Thế là Vasia bị sung vào đội quân lao động cưỡng bức.
Ông hợp tác Kostet- Amuaski vốn được hết thảy các tù nhân dưới chế độ Sa hoàng và dưới chính thể mới kính trọng, đã nhiều lần lưu ý anh lính áp giải về tình cảnh vô lý quá mức của Vasia. Voroniuc thừa nhận rằng đây quả là một sự ngộ nhận vô cùng tai hại, nhưng các khó khăn về thể thức không cho phép đề cập trường hợp rắc rối này trong thời gian đi đường và anh ta hy vọng sẽ giải quyết ổn thoả khi đến nơi.
Vasia là một thiếu niên dễ thương, khuôn mặt có những đường nét đều đặn như các ngự lâm quân và các thiên thần vẽ trong tranh. Cậu trong trắng và ngoan đến mức hiếm có. Trò giải trí thích nhất của cậu là ngồi phệt xuống sàn tàu dưới chân người lớn, tay bó gối, đầu ngả ra đằng sau, nghe người ta nói hay kể chuyện. Cứ nhìn các thớ thịt trên mặt cậu chuyển động khi cậu cố ngăn cho nước mắt khỏi trào ra hay cố nhịn cười đến nghẹn thở, cũng có thể khôi phục được nội dung câu chuyện đã kể. Đề tài câu chuyện được phản chiếu trên khuôn mặt thiếu rúên nhạy cảm ấy như trên một tấm gương.
Kostet ngồi trên tấm ván thượng với gia đình Zhivago và cứ mút chùn chụt cái chân thỏ mà gia đình khoản đãi ông ta. Ông ta rất sợ gió lùa và cảm lạnh. “Gió quá! Gió thổi từ phía nào thế nhỉ?” – Ông ta hỏi và luôn luôn đổi chỗ ngồi để tìm nơi kín gió. Cuối cùng ông ta chọn được một chỗ hoàn toàn khuất gió, miệng nói: “Bây giờ tốt rồi”, ông ta nuốt miếng cuối cùng, liếm láp các ngón tay, lấy khăn ra lau, cảm ơn chủ nhân và nhận xét:
– Chắc gió từ cửa sổ lọt vào? Thế nào cũng phải bít kín lại. Nhưng ta hãy trở lại đề tài tranh luận. Bác sĩ lầm đấy nhé. Thỏ rán là món ăn tuyệt diệu. Nhưng từ đó rút ra kết luận rằng nông thôn đang sống sung túc, thì xin lỗi bác sĩ, cái đó ít nhất là quá táo bạo, nếu không nói là vô cùng liều lĩnh.
– Ồ ai bảo ông thế? – bác sĩ Zhivago phản đối. – Ông hãy nhìn về các nhà ga đi. Cây chưa bị chặt. Các hàng rào vẫn nguyên vẹn. Rồi còn các thứ chợ đen! Các bà nhà nhà quê kia! Hay biết mấy đi chứ! Ở đâu đó vẫn còn sống được. Vẫn có người sung sướng. Chẳng phải ai cũng rên rỉ. Điều đó biện minh cho hết thảy những điều khác.
– Giá được thế thì tốt quá. Đằng này đâu phải như vậy.
– Căn cứ vào đâu mà bác sĩ nói như thế đã nào? Bác sĩ thử đi tới bất cứ nơi nào cách xa đường tàu một trăm dặm sẽ thấy. Đâu đâu dân quê cũng nổi dậy. Bác sĩ sẽ hỏi họ chống ai? Chống bạch vệ và chống cả Hồng quân, tuy địa phương ấy nằm dưới chính quyền nào. Chắc bác sĩ sắp bảo tôi, à, vậy ra dân quê thù địch với mọi chính quyền, tự họ không biết họ muốn gì. Xin lỗi bác sĩ, nhưng cái họ muốn hoàn toàn không giống cái tôi và bác sĩ muốn đâu. Khi cách mạng đã thức tỉnh họ, họ tin tưởng rằng họ đang thực hiện giấc mơ muôn thuở của họ về cuộc sống riêng tư cuộc sống vô chính phủ ở trại ấp bằng sức lao động của hai bàn tay họ, chẳng luỵ thuộc vào ai và có bổn phận với bất cứ ai. Nhưng sau khi thoát khỏi nanh vuốt của bộ máy thống trị cũ đã bị lật đổ, họ lại sa vào thứ kìm kẹp còn xiết chặt hơn nữa của siêu nhà nước cách mạng mới. Bởi thế dân quê mới điêu đứng và không tìm sự yên ổn ở bất kỳ đâu. Vậy mà bác sĩ bảo nông dân đang sống sung túc. Ông bạn quý của tôi ơi, ông chưa biết gì hết, và, theo chỗ tôi thấy, ông cũng chẳng muốn biết.
– Thì đã sao, đúng là tôi không muốn biết đấy. Hoàn toàn đúng. Ấy, hượm đã nào! Nhưng tôi biết tất cả, tôi khổ tâm lo lắng về tất cả mọi cái để làm gì nào? Thời đại chẳng buồn đếm xỉa đến tôi và cứ áp đặt cho những gì nó muốn. Thì hãy cho phép tôi coi thường các sự thực. Ông bảo lời tôi nói không ăn khớp với thực tế Nhưng ở nước Nga bây giờ có thực tế hay không? Theo tôi, người ta doạ dẫm thực tế đến nỗi nó phải lẩn trốn. Tôi muốn tin rằng thôn quê đã thắng cuộc và đang phồn vinh. Nếu điều đó cũng sai, thì tôi biết làm gì được nữa? Tôi còn biết sống bằng gì, biết nghe theo ai? Mà tôi lại phải sống, tôi còn có gia đình.
Bác sĩ Zhivago phẩy tay, nhường lời cho nhạc phụ tranh luận nốt với Kostet, chàng nhích ra mép ván dùng làm chỗ nằm, nghiêng đầu mà nhìn những gì xảy ra bên dưới.
Ở bên dưới, Pritulev, Voroniuc, Chiagunova và Vasia đang nói chuyện với nhau. Vì tàu sắp chạy qua vùng quê của Pritulev, nên anh ta nhắc đến cách đi về làng; tàu đỗ ở ga nào thì xuống, rồi đi tiếp ra sao, cuốc bộ hay leo lên xe ngựa. Khi nghe nhắc đến các tên làng, tên xã quen thuộc, Vasia lại nhảy cẫng lên, mắt sáng rực, say sưa nhắc lại các địa danh ấy, bởi vì chỉ riêng việc kể tên chúng ra cũng đã đem lại thích thú cho cậu như một chuyện cổ tích thần kỳ.
– Chú xuống ga Suối Cạn à? – cậu nghẹn ngào hỏi lại.
– Đúng rồi! Ga Suối Cạn! Xuống ga ấy là về làng cháu đấy! Sau đó chắc chú sẽ đi qua làng Buiski chứ?
– Ừ qua làng Buiski.
– Cháu đã bảo mà, làng Buiski, ai chả biết! Đến đấy là phải quẹo. Từ đấy cứ đi theo tay phải là về đến làng cháu, làng Veretenich ấy. Còn về làng chú, thì tới con sông là rẽ tay trái. Chú Pritulev biết sông Penga chứ? Ôi, tất nhiên là chú biết. Dòng sông quê cháu đấy, cứ men sông, cứ theo đường bờ sông mà đi sẽ đến làng cháụ. Làng cháu nằm ngay trên bờ sông Penga, làng Veretenich ấy! Ở chỗ bờ sông dốc nhất ấy! Dốc ơi là dốc! Đứng trên cao không dám nhìn xuống, chóng mặt lắm? Chỉ sợ lăn tròn xuống thôi. Cháu chả bịa đâu. Chỗ ấy nhiều đá, dân làng đem về đẽo làm cối xay. Mẹ cháu ở đó, ở làng Vereterích. Cả hai đứa em gái của cháu nữa. Em Alenca và em Aria. Mẹ cháu tên là Palasa, cũng trẻ và trắng như cô Pelaghea Milovna đây này. Chú Voroniuc ơi, cháu lạy chúr Cháu xin cầu Chúa phù hộ cho chú! Chú Voroniuc ơi!
– Mi hiểu cái chi? Mần răng 2 mà mi cứ luôn miệng kêu “Chú Voroniuc ơi, chú Voroniuc hỡi” mãi thế? Mi tưởng tao hổng biết tao là chú Voroniuc, chứ hổng có phải là ả Voroniuc hả? Mi cần cái chi, mi ưng cái chi? Muốn tao thả mi ra, phải hôn? Biểu ta coi! Cho mi chuồn, để tao thế mạng à, đồ cù lần?
Chiagunova lơ đãng nhìn về phía xa, lẳng lặng không nói gì Chị ta xoa đầu Vasia và cứ vuốt vuốt mái tóc của cậu thiếu niên với dáng điệu nghĩ ngợi, trù tính điều gì đó. Thỉnh thoảng chị ta cúi xuống, bằng cử chỉ lắc đầu, bằng ánh mắt, hoặc nụ cười, chị ta ra hiệu cho Vasia, ngụ ý bảo cậu đừng xin xỏ Voroniuc trước mặt mọi người nữa. Hãy chịu khó chờ vài bữa, rồi mọi sự đâu sẽ vào đó, đừng lo.
Khi đoàn tàu rời miền Trung Nga tiến xa sang phía Đông, thì hay xảy ra lắm chuyện bất ngờ. Tàu bắt đầu chạy qua những vùng mất an ninh, những tỉnh có bọn cướp có vũ trang đang hoành hành, những nơi mới dẹp xong các cuộc nổi loạn.
Tàu cứ phải đỗ lại mỗi lúc một nhiều giữa đồng không mông quạnh, để các toán tuần tiễu lên toa khám xét hành lý và kiểm tra giấy tờ.
Một lần, tàu ngừng lại ở đâu đó giữa đêm tối, nhưng không thấy ai lên toa khám xét gì cả. Bác sĩ Zhivago tò mò muốn biết có chuyện gì xảy ra, bèn từ trên toa nhảy xuống đất xem sao.
Đêm tối thui tối mò, không vì lý do rõ ràng nào cả, tàu tự nhiên đỗ lại giữa một cánh đồng, ở chỗ hơi xuống dốc, hai bên đường có nhiều cây tùng. Những hành khách cùng toa nháy xuống trước Zhivago, đang đứng cạnh toa, nói rằng theo họ được biết, chẳng có sự cố gì xảy ra, nhưng người tài xế đã hãm tàu lại viện cớ vùng này đang bị đe doạ, và không chịu cho tàu chuyển bánh một khi xe goòng chưa đi kiểm soát độ an toàn của đoạn dốc phía trước. Họ bảo các đại diện của hành khách đã lên nài rủ bác ta, nếu cần thì lót tay cho xong chuyện.
Nghe đâu đám lính thuỷ đã can thiệp, chắc đám ấy có cách bắt tài xế phải nghe theo.
Trong lúc nghe người ta giải thích những điều đó, Zhivago thấy bãi tuyết bằng phẳng phía trước, cạnh đầu máy, được nhuộm hồng bởi ánh lửa bập bùng trên miệng ống khói và từ đáy lò đốt hắt ra như từ một đống lưa cháy rừng rực. Đột nhiên, một trong những lưỡi lửa như thế chiếu sáng rõ ràng một khoảnh đồng tuyết, đầu máy xe lửa và mấy bóng người luồn nhanh dọc theo khung đầu máy.
Người chạy trước hẳn là bác tài xế. Bác ta chạy theo mép toa đến đầu tàu thì nhún mình nhảy lên, bay vọt qua thanh chống và rồi mất hút. Mấy gã lính thuỷ đuổi theo bác ta cũng làm y như vậy và cũng biến mất như độn thổ.
Thấy cảnh lạ, Zhivago cùng mấy người tò mò đi về phía đầu máy.
Ở phần đường trống trải mở ra trước đoàn tàu, họ nhìn thấy cảnh tượng như sau. Cách mặt đường một quãng, bác tài xế bị sụt dưới tuyết đến tận thắt lưng, đang vùng vẫy chới với.
Đám lính thuỷ rượt theo bác ta, như rượt theo một con thú, cũng bị sụt dưới tuyết đến nửa người, làm thành một nửa vòng tròn quanh bác ta.
Bác ta kêu to:
– Cám ơn các đồng chí chim báo bão! Tôi sống đến ngần này tuổi đầu để được đối xử thế này đây! Thuỷ binh cách mạng gì mà lại chĩa súng vào một người anh em cùng giai cấp, một người thợ! Chỉ vì tôi đã nói rằng tàu không thể chạy tiếp được. Các đồng chí hành khách ơi, xin các đồng chí làm chứng cho, đoạn đường này nó như thế nào. Kẻ muốn phá hoại chỉ việc tháo vài cái đinh bù- loong nối ray là đi đứt. Tôi thì cóc cần đâu, tôi chả thiệt gì. Khốn nạn, tôi lo đây là lo cho các đồng chí, muốn an toàn cho các đồng chí. Thế mà làm ơn nên oán, tôi được người ta đền đáp như thế này đây. Ừ thì bắn tôi đi, bắn quách đi, các người anh em? Xin các đồng chí hành khách làm chứng cho tôi! Đấy, nó sắp bắn tôi đấy, tôi đâu có trốn tránh…
Đám hành khách đứng trên nền đường sắt bắt đầu xôn xao. Có những tiếng hét to, đủ giọng khác nhau:
– Cái nhà cậu kia làm gì mà cứ lăm nhăm khẩu súng thế…
– Bình tĩnh lại nào… Ai cho phép họ làm như thế chứ?
– À, đấy là họ giỡn một tí… Doạ nhau chơi đấy ma!
Có người lại kích thêm:
– Bác tài ơi, mặc xác họ, đừng để họ bắt nạt!
Tay lính thuỷ đầu tiên gạt tuyết leo lên được là một người khổng lồ tóc hung, đầu to đến nỗi trông cái mặt như bị bẹt lại. Anh ta bình thản đi tới chỗ đám đông và, cũng bằng thổ ngữ Ucraina y như anh lính Voroniuc, anh ta nói mấy lời, nghe bình tĩnh đến mức khôi hài trong bối cảnh sự cố bất thường đêm nay:
– Tui xin lỗi, nhưng các đồng chí ơi, đứng đây lạnh lắm. Khẻo kéo bị cảm đẩy. Mời các đồng chí lên toa thôi!
Khi đám đông bắt đầu tản về các toa, tay lính thuỷ ấy bước tới gần bác tài xế, lúc ấy vẫn chứ hoàn hồn, và nói:
– Đồng chí thợ máy, sợ hãi thế đủ rồi. Bò lên thui. Chở bọn tui đi thui.
Ngày hôm sau, tàu chạy chậm như sên; sợ trật bánh vì đường ray bị tuyết phủ, chưa được dọn sạch. Nó đỗ lại ở một khu vực hoang vắng, từng là nơi có người sinh sống, bây giờ phải một lúc lâu người ta mới nhận ra vết tích của một nhà ga bị thiêu huỷ. Trên mặt tiền đen sì của ga, nhìn kỹ mới đọc được hàng chữ “Ga Nigiơni Kenmet”.
Nhà ga không phải là nơi duy nhất lưu giữ dấu vết vụ hoả hoạn. Đằng sau ga, người ta thấy cả một xóm bị bỏ hoang, tuyết phủ dày, chắc là đã chịu chung số phận với nhà ga.
Ngôi nhà gần ga nhất đã ra tro, đầu hồi nhà bên cạnh có mấy cây gỗ làm tường nhà bị đổ một đầu chọc xuống đất, đầu kia chổng lên trời, ngoài dường vứt ngổn ngang đủ thứ, các mảnh xe trượt tuyết, các tường rào đổ nát, các thanh sắt cong queo, các mảnh bát đĩa vỡ. Mặt tuyết nhơ nhớp bởi mồ hóng, bởi các vết tích của đám cháy cùng các nỗ lực để dập tắt nó.
Nhà ga và cái xóm kia không hoàn toàn hoang vắng. Cả hai nơi vẫn còn lẻ tẻ bóng người.
Khi thấy viên trưởng ga từ đằng sau đống đổ nát bước ra, ông trưởng tàu bèn nhảy xuống đất và hỏi với vẻ thông cảm:
– Cháy hết cả xóm à, đồng chí?
– Chào ông. Mừng các ông tới đây bình an. Bị thiêu trụi đã đành song tình hình còn tệ hại hơn hoả hoạn nữa kia.
– Tôi chưa hiểu.
– Thế lại hơn.
– Chẳng lẽ Strelnikov?
– Chính hắn.
– Các đồng chí đã phạm sai sót gì?
– Không phải tại chúng tôi. Tại ga mình nằm cạnh họ thôi.
– Tại láng giềng mà mình vạ lây. Ông thấy cái xóm kia chứ?
Xóm Nigiơni Kenmet thuộc xã Ust- Nemda. Tại họ mà ra cả.
– Họ đã làm gì?
– Không phải đã làm gì, mà là mắc đủ thứ tội chết người. Họ đã giải tán Uỷ ban dân nghèo là một này, chống lệnh nộp ngựa cho Hồng quân, trong khi họ toàn là dân Tarta, nhà nào cũng có ngựa, là hai này. Không tuân lệnh động viên. Thế là ba tội ông thấy đó.
– Ờ, ờ thế thì tất cả đều rõ. Và vì thế mà người ta nã đại bác vào xóm họ chứ gì?
– Đúng thế.
– Bị pháo kích từ đoàn tàu bọc thép phải không?
– Dĩ nhiên.
– Buồn thật. Đáng tiếc. Nhưng thôi, đó chả phải việc của chúng ta.
– Với lại đó là chuyện đã rồi. Chuyện mới thì tôi chẳng làm ông vui được đâu. Đoàn tàu của ông sẽ phải đậu ở đây vài ngày.
Đồng chí nói giỡn. Tàu chúng tôi tiếp viện ra mặt trận đấy chả phải thường đâu. Tôi không quen đỗ lâu.
– Đùa với giỡn gì. Tuyết lấp kín thế kia, ông cũng thấy đó. Bão tuyết hoành hành khắp tuyến đường suốt cả một tuần. Tuyết lấp hết trơn. Mà chả có ma nào để dọn đường cả. Một nửa xóm bỏ đi tứ tán rồi. Tôi động viên số còn lại, nhưng họ làm không xuể.
– Thế thì các người xéo đi cho rồi? Hỏng, hỏng bét cả!
– Này, bây giờ phải làm gì?.
– Chúng tôi sẽ cố dọn để tàu có thể chạy được.
– Tuyết có phủ dầy lắm không?
– Cũng không quá dầy. Một số đoạn thôi. Bão tuyết thổi xiên xiên so với mặt đường. Gay nhất là quãng giữa, có ba cây số đường trũng. Đoạn ấy quả là vất vả đấy. Nó bị phủ kín hoàn toàn. Sau đó thì đường tốt, vì có rừng taiga chắn gió tuyết. Đoạn từ đây đến khúc đường trũng cũng không đáng sợ lắm, vì là đồng trống, gió đã quét đi hộ một ít tuyết.
– Tai hại! Đến là lôi thôi! Tôi sẽ huy động toàn bộ hành khách đi dọn tuyết giúp đồng chí vậy.
– Tôi cũng nghĩ như vậy.
– Riêng đám lính thủy và các chiến sĩ Hồng quân thì chớ động tới họ. Trên tàu hiện có cả một đội quân lao công chiến trường. Cộng với số hành khách là thưởng dân thì được độ bảy trăm người.
– Thế thì dư đã quá. Lúc nào người ta chở xẻng tới, thì ta huy động họ đi làm. Ở đây thiếu xẻng. Tôi đã cho người sang các làng xung quanh mượn rồi. Thế nào cũng xoay được.
– Thật là xui xẻo! Đồng chí nghĩ sao, liệu có dọn hết tuyết được không?
– Được quá đi chứ. Tục ngữ có câu: “Hợp quần lấy được mọi thành trì”. Đằng này bất quá chỉ là một khúc đường, ăn nhằm gì.
Việc dọn tuyết chiếm mất hết ba ngày đêm. Toàn bộ gia đình Zhivago, kể cả Niusa, đều hăng hái tham gia. Đây là giai đoạn thú vị nhất trong cuộc hành trình của họ.
Vùng này có một cái gì bí ẩn, tiềm ẩn điều chưa được nói đến cùng. Nó mang hơi hướng của cuộc khơi nghĩa của Pugachov qua cách miêu tả của Puskin 3 và chất Á Đông trong chuyện của Axakov 4, vẻ bí hiểm của vùng này càng làm tăng thêm bởi cảnh tàn phá, bởi thái độ hết sức kín đáo của số dân cư ít ỏi còn ở lại địa phương: họ có vẻ sợ sệt, né tránh các hành khách trên xe lửa và cũng chẳng nói năng gì với nhau vì sợ bị tố cáo.
Hành khách được phân loại thành từng đội riêng và được đưa tới chỗ làm cách biệt nhau. Khu vực làm việc có lính gác bảo vệ.
Đường tàu được dọn tại nhiều nơi cùng một lúc, mỗi đội dọn một khác. Mỗi khúc đều chừa lại vài mét ở hai đầu, tiếp giáp với đội bên cạnh. Phần chừa lại ấy, đến giờ phút cuối cùng mới dọn, sau khi hoàn thành việc dọn toàn bộ quãng dường bị tuyết phủ.
Mấy hôm nay trời trong sáng và lạnh giá. Ban ngày họ làm việc, chỉ trở về toa để ngủ đêm. Mọi người làm theo từng ca ngắn để khỏi bị mệt, vả lại xẻng thì ít, mà nhân công quá thừa. Việc dọn tuyết theo kiểu đó chỉ đem lại hứng thú.
Chỗ gia đình Zhivago xúc tuyết rất thoáng đãng và đẹp mắt. Ở chỗ đó, mặt đất chạy thoai thoải xuống phía Đông đường sắt, rồi uốn lên như sóng đến tận chân trời.
Trên một ngọn đồi có một ngôi nhà đơn độc, trống gió từ bốn phía, chung quanh có một vườn cây, chắc về mùa hè cây lá rậm rạp nhưng bây giờ thì cành lá thưa thớt, bị tuyết phủ, không còn khả năng che chở ngôi nhà.
Màn tuyết san bằng và nắn tròn vạn vật. Nhưng căn cứ vào những chỗ lồ lõm chính trên sườn đồị mà ngần ấy tuyết vẫn không hoàn toàn phủ kín được, thì hẳn là về mùa xuân người ta phải thấy có một con suối chảy xuống lạch nước của chiếc cầu cạn chạy dọc theo một đường khe ngoằn ngoèo, con suối ấy giờ đây đã bị khuất lấp hẳn dưới lớp tuyết sâu, như một đứa trẻ cuộn tròn dưới một tấm chăn lồng bồng.
Ngôi nhà có người ở hay bị bỏ hoang và đổ nát sau khi Uỷ ban ruộng đất của xã hoặc huyện trưng thu? Những người ở nhà đó bây giờ ở đâu? Số phận họ ra sao? Họ đã trốn ra ngoại quốc hay bị nông dân giết chết? Hay là họ đang sống ở huyện ly với tư cách các nhà chuyên môn có học vấn đáng khen ngợi? Nếu họ ở lại đây đến giờ phút cuối cùng, liệu Strelnikov có nể nang gì họ, hay đã bị đàn áp cùng với bọn kulak rồi.
Ngôi nhà trên đỉnh đồi gợi tính tò mò và giữ vẻ lặng lẽ u buồn. Nhưng bây giờ chả ai nêu câu hỏi và có hỏi cung không ai trả lời. Riêng mặt trời rọi xuống mặt tuyết bằng phẳng làm lóe lên thứ ánh sáng trắng chói loá. Lưỡi xẻng ấn xuống lớp tuyết ấy và hất lên ìtng tảng mới ngọt và đều đặn làm sao? Ở các vết cắt tuyết phát toả những tia sáng khô, ánh như kim cương, trông đẹp xiết bao! Tất cả cảnh ấy gợi nhở những ngày thơ ấu xa xôi. Thuở ấy, cậu bé Yuri Zhivago, đầu đội cái mũ nồi màu sáng có viền, mình mặc chiếc áo tưlúp lót da cừu có khoang đen, cứ ngồi ở sân gọt các hình kim tự tháp, hình lập phương, hình những chiếc bánh ga- tô, các pháo đài và các thành phố có hang động! Ôi, đời sống thuở ấy mới ngon lành làm sao! Vạn vật quanh mình mới đẹp mắt và ngon miệng làm sao!
Nhưng cả ba ngày sống ngoài trời thế này cũng đem lại cho họ cảm giác no nê. Và không phải vô cớ, buổi tối, những người đi làm về được phát một ổ bánh mì, còn nóng hổi, không biết được chở từ đâu tới và do ai đặt làm. Vỏ bánh thơm phức, có nhiều vết rạn nứt nhỏ ở hai bên, trông đã thấy ngon, và đáy chiếc bánh khá dày, được nướng rất khéo, còn dính những hạt than nhỏ xíu.
Người ta đâm ra yêu mến khu nhà ga đổ nát, như quyến luyến với nơi trú ngụ tạm thời trong một cuộc tham quan các núi tuyết. Vị trí, hình dáng bên ngoài, đặc điểm của mấy chỗ hư hại của nó cứ in sâu trong trí nhớ của họ.
Hàng ngày họ trở lại ga lúc mặt trời lặn. Dường như mặt trời trung thành với quá khứ, nên hôm nào cũng lặn ở chỗ cũ, phía sau cây bạch dương già mọc ngay trước cửa sổ buồng trực điện thoại.
Bức tường ngoài ở chỗ này đổ sập vào trong, lấp kín cả căn phòng. Nhưng góc sau của căn phòng, đối diện với cái cửa sổ còn nguyên vẹn, thì chưa bị đổ. Mọi thứ ở đó vẫn còn: giấy bồi tường màu cà phê, cái lò sưởi bằng sứ có ống thông hơi tròn, đậy bằng một cái mũ đồng, ngoắc với một đoạn dây xích nhỏ bản kê khai đồ đạc đóng khung đen móc vào tường.
Cũng hệt như trước ngày xẩy ra tai hoạ, mặt trời khi lặn xuống sát mặt đất lại với các lớp sứ của lò sưởi, lại hâm nóng lớp giấy bồi tựờng màu cà phê và lại in lên tường các cành bạch dương như phủ một tấm khăn san.
Ở phần khách của toà nhà, có một cái cửa ra vào đã bị chắn lại của phòng khám bệnh. Trên cánh cửa có dòng chữ hẳn được viết vào những ngày đầu cuộc Cách mạng tháng Hai hoặc trước đó ít lâu, nội dung như sau:
“Vì lý do thuốc men và bông băng, kính xin quý vị bệnh nhân tạm thời đừng lo phiền. Chiểu theo lý do vừa nói, tôi niêm phong cửa và xin kính cáo với quý vị về việc này. Chánh y sĩ tổng Ust – Nemda”.
Khi người ta dọn nốt các đống tuyết còn chừa lại giữa các khúc đã dọn, thì trước mặt hiện ra con đường ray đều đặn, thẳng băng, chạy tít về phía xa như một mũi tên. Hai bên đường nhấp nhô những núi tuyết trắng, được tạo ra từ lớp tuyết hất dưới đường tàu, và được viền suốt chiều dài bằng hai bức tường rừng tùng đen đen.
Trong tầm mắt, ở những chỗ khác nhau trên đường ray, có từng tốp người cầm xẻng đang đứng. Lần đầu tiên họ nhìn thấy nhau đông dủ và ngạc nhiên về chuyện họ đông đảo đến ngần này.
Được biết tàu sẽ chuyển bánh sau vài giờ nữa, dù chiều đã xế và đêm sắp buông. Trước khi tàu chạy tiếp, hai vợ chồng Zhivago đi ngắm lần cuối vẻ đẹp của tuyến đường vừa được dọn sạch. Trên mặt đường đã chẳng còn ai. Hai vợ chồng đứng một lúc, nhìn về phía xa, trao đổi vài lời nhận xét, rồi quay lại toa của họ.
Trên đường trở về, họ nghe thấy những tiếng hét giận đữ, khản cả cổ của hai người đàn bà đang chửi bới nhau. Họ nhận ra ngay đó là tiếng Ogryskova và Chiagunova. Hai chị kia cũng đi cùng chiều với vợ chồng Zhivago, từ đầu tàu về phía cuối tàu nhưng họ ở bên phía nhà ga, còn vợ chồng Zhivago ở bên phía rừng. Ngăn cách giữa hai cặp là bức tường dài các toa tàu. Hai chị kia luôn luôn hoặc vượt xa lên trước, hoặc tụt hẳn lại phía sau, so với vợ chồng Zhivago.
Hai phụ nữ ấy đang bị xúc động mạnh và đuối sức đi rõ rệt. Căn cứ vào giọng nói của họ mà đoán, lúc thì cụt ngủn và tru tréo, lúc lại thấp xuống thành tiếng thì thào, chắc là trong lúc đi họ bị thụt chân xuống tuyết hoặc cất bước không nổi. Rõ ràng Chiagunova rượt theo Ogryskova và mỗi lần đuổi kịp, có lẽ lại thọi cho cô kia vài quả.
Chị ta chửi như tát nước vào mặt tình địch, những câu chửi có bài bản hẳn hoi, ở miệng một con công cái và một tiểu thư như chị ta nghe còn trắng trợn gấp trăm lần tiếng chửi tục thô thiển và chói tai của cánh đàn ông.
– Này con đi đĩ kia! – Chiagunova thét. – Đồ đĩ rời đĩ rạc, đĩ có tàn có tán kia! Người ta đi đâu là thấy mặt con đĩ đi theo đấy, cái váy quét đất con mắt thì láo liên! Đồ đàng điếm, thằng già nhà tao ôm ấp mày chưa đủ thoả mãn hay sao, mà mày còn đi quyến rũ một thằng bé non nớt. Cứ cong tớn cái đuôi lên, nó phải làm hư một thằng bé mới thoả kia.
– Thế mày là vợ chính thức của Vasia chắc?
– Bà thì bà cho mày biết thế nào là chính với chả thức, đồ đĩ ngựa, con hủi cùn hủi cụt! Mày mà còn mở mồm ăn xằng nói bậy, thì bà cho mày ăn đất. Chớ có trêu gan bà!
– Này, này, buông tay ra, buông tao ra! Con điên! Mày muốn gì ở tao, đồ chó dại?
– Bà muốn mày bị chết đâm chết chém chứ còn muốn gì, đồ tứ chiếng giang hồ, quân mèo mả gà đồng, con thối thây kia.
– Ừ thì tao là mèo mả gà đồng, ừ thì tao là tứ chiếng giang hồ đúng như mày nói đấy! Thế còn mày thì sao? Mày là tiểu thư danh giá quá nhỉ. Mày sinh ra dưới cống, lấy chồng gầm cầu có bầu với chuột và đẻ ra con chim… Cứu tôi với, cứu tôi với các ông các bà ơi! Cái mụ thần đanh đỏ mỏ nó giết tôi mất thôi! Ôi xin các ông các bà hãy cứu một đứa con gái, một đứa trẻ mồ côi…
Tonia giục chồng:
– Mình đi nhanh lên anh. Em không chịu nổi đâu. Khó nghe quá. Chuyện này rồi sẽ dẫn đến hậu quả chả hay ho gì.
Bỗng dưng tất cả đều thay đổi, cả phong cảnh lẫn thời tiết Đồng bằng đã hết, đường tàu bắt đầu chạy giữa các quả đồi giữa vùng núi non. Gió bấc từng thổi suốt thời gian qua, nay tắt hẳn. Gió Nam thổi tới ấm áp như hơi một lò sưởi mở cửa.
Nơi đây, rừng cây mọc từng đám dày trên sườn đồi. Mỗi lần đường sắt cắt ngang qua đó, xe lửa phải leo lên dốc một quăng dài, đến lưng chừng mới lại trườn xuống khoáng dốc thoai thoải phía bên kia. Nó vừa bò lên rừng cây vừa thở hồng hộc, bò lết mình chậm rãi như một ông lão gác rừng dẫn đường cho một đoàn lữ khách cứ luôn luôn quay đầu, ngoái cổ nhìn sang hai bên để quan sát đủ mọi thứ.
Nhưng bây giờ vẫn chưa có gì để mà quan sát. Rừng cây vẫn chìm trong sự thanh bình và giấc ngủ như mùa đông, chỉ thỉnh thoảng một vài bụi cây nhỏ hay các cây lớn rì rào gỡ những cành nhánh ở dưới thấp ra khỏi đám tuyết đang dần dần lún xuống, như thể chúng cởi bỏ chiếc kiềng hoặc cái cổ áo quá chật.
Mấy ngày nay Zhivago tự nhiên lúc nào cũng thấy buồn ngủ. Chàng cứ nằm bệt một chỗ và ngù li bì, thỉnh thoảng mới thức đậy nghĩ ngợi và lắng tai nghe. Nhưng hiện thời vẫn chưa có gì đáng nghe cả.
Trong lúc bác sĩ Zhivago nằm ngủ thoả thích, thì mùa xuân hâm nóng và làm tan toàn bộ cái khối tuyết khổng lồ đã rơi xuống ngày càng rời Moskva và tiếp tục rơi suốt dọc đường chàng đi, cái khối tuyết mà họ từng đào xúc ba ngày đêm ở xã Ust- Nemda, cái khối tuyết dày và sâu rộng trải khắp những vùng rộng hàng ngàn đặm.
Thoạt tiên, tuyết tan trong ruột, âm thầm và kín đáo. Khi một nửa cái công việc lớn lao ấy đã hoàn tất, thì không thể giấu giếm nó được nữa. Phép lạ lộ ra ngoài. Từ dưới lớp tuyết nứt vỡ, nước bắt đầu chảy ra và lên tiếng. Các cánh rừng hiểm trở rùng mình thức giấc. Thôi thì nước tha hồ tưng tăng nô giỡn. Nó bay xuống từ ghềnh cao, nó trải rộng thành ao hồ, nó tràn lan khắp chốn. Chẳng mấy chốc khu rừng đầy ắp tiếng nước chảy, mù mịt hơi nước và thoang thoảng hương thơm của nước. Trong rừng, các dòng nước bò ngoằn ngoèo như rắn, soi thủng các ụ tuyết cản đường chảy của chúng, tràn rào rào qua những chỗ bằng phẳng và ầm ầm lao xuống dưới thác, toả ra vô vàn bụi nước. Đất ứ nước. Từ trên độ cao chóng mặt, gần như chạm mây trời, những cây thông cây tùng cổ thụ cũng phải vươn rễ ra uống nước, tạo nên các đám bọt màu nâu nhạt y hệt bọt bia trên râu ria người uống.
Bầu trời say sưa uống cạn mùa xuân và choáng váng vì hơi men của nó, thở ra đầy mât. Những đám mây, ngoài ria lua tưa như mép tấm nỉ, bay là là phía trên cánh rừng rồi trút xuống những cơn mưa rào ấm áp, thoang thoảng mùi đất và mui mồ hôi, rửa sạch mặt đất khỏi các mảnh vỡ nát cuối cùng của chiếc áo giáp đen may bằng tuyết.
Zhivago tỉnh dậy. xê dịch người ra sát cái khuôn cửa hình vuông mà người ta đã gỡ mất khung, chàng chống khuỷu tay nhỏm lên và bắt đầu lắng nghe.
Tàu càng tới gần vùng hầm mỏ thì dân cư càng đông đúc, khoảng cách giữa các ga càng ngắn dần và tàu càng dừng lại nhiều hơn. Khách lên xuống tàu không còn hiếm hoi như trước Những hành khách đi các dộ đường ngắn hơn không tìm chỗ nằm ngủ, mà ban đêm chỉ ngồi ghé đâu đó cạnh cửa toa hoặc giữa toa, thì thầm bàn luận với nhau về những công việc tại dịa phương chỉ riêng họ hiểu, rồi họ xuống tàu ngay ở ga sau đó.
Qua các mẩu chuyện của số khách người địa phương nối tiếp nhau lên xuống toa trong ba ngày qua, Zhivago rút ra kết luận, rằng ở miền Bắc, quân bạch vệ đang thắng thế và đã hoặc sắp chiếm thành phố Yuratin. Ngoài ra, nếu thính giác không đánh lừa chàng và nếu không có một người nào đó trùng họ tên với anh bạn cùng nằm viện với chàng ở thị trấn Meliuzev, thì quân bạch vệ tại hướng này do Galiulin chỉ huy.
Zhivago không nói một lời về chuyện đó với gia quyến để họ khỏi lo lắng vô ích, khi các tin đồn ấy chưa được xác nhận là đúng.
Gần nửa đêm, Zhivago thức giấc vì cảm giác sung sướng lờ mờ dâng lên trong lòng chàng mỗi lúc một mạnh khiến chàng phải tỉnh dậy. Tàu đang đỗ ở một ga nào đó. Nhà ga chìm trong bóng tối mờ mờ của một đêm trắng. Cảnh tối sáng ấy thấm dượm một cái gì vừa tinh tế vừa mãnh liệt. Nó chứng tỏ tầm rộng và độ khoáng đạt của địa phương.
Nó gợi nhắc rằng nhà ga này nằm trên một địa thế cao, mở rạ tầm nhìn rộng rãi và phóng khoáng.
Trên sân ga, có những bóng người đi ngang toa, vừa đi vừa trò chuyện nho nhỏ, chân bước nhẹ nhành không một tiếng động. Điều đó cũng khiến Zhivago ưa thích. Chàng nhận ra rằng sự giữ gìn lời ăn tiếng nói và bước chân đi kia chứng tỏ thái độ tôn trọng vào giờ phút khuya khoắt đối với những người đang nằm ngủ trên tàu, một điều chỉ có ngày xưa, thời trước chiến tranh.
Bác sĩ đã lầm. Trên sân ga bắt đầu rộn lên tiếng nói to, tiếng ủng lệt sệt, như ở bất cứ ga nào khác. Nhưng gần đây có một thác nước. Nó mở rộng giới hạn của đêm trắng bằng hơi mát trong lành và không khí tự do. Nó đã tạo nên cảm giác sung sướng của chàng lúc đang ngủ. Tiếng rì rào đều đều, triền miên của thác nước lấn át mọi âm thanh ở nhà ga và làm cho chúng mang vẻ im lặng giả dối.
Zhivago lại ngủ thiếp đi thật say chàng không đoán được là có thác nước, nhưng được ru bởi sự lưu chuyển huyền bí của khí trời Trên sân toa, phía dưới chỗ chàng nằm, có hai người đang trò chuyện. Người này hỏi người kia:
– Thế nào, ở vùng ông người ta đã dẹp yên bọn chúng chưa? Đã đè bẹp bọn chúng chưa?
– Tụi con buôn ấy à?
– Ừ, tụi con buôn ấy!
– Dẹp yên, ghép chúng vào khuôn phép rồi. Bây giờ tụi chúng ngoan ngoãn như bầy cừu. Người ta bắn bỏ vài tên là tụi còn lại im re. Người ta đã thu thuế đảm phụ.
– Một xã thu được nhiều hay ít?
– Bốn chục ngàn.
– Xạo?
– Tôi bịa ra làm quái gì?
– Trời đất, những bốn mươi ngàn!
– Bốn mươi ngàn pút 5.
– Thế thì chỗ các ông tài thật, thánh thật!
– Bốn mươi ngàn thùng bột loại mịn.
– Suy cho cùng thì cũng chẳng có gì lạ. Vùng này đất cát phì nhiêu, đúng đất buôn bán bột mì. Suốt từ đây, dọc theo bờ sông Rynva ngược lên Yuratin, làng mạc cứ san sát, bao nhiêu là bến tàu thuyền và các kho nông sản. Nào anh em nhà Secxtobitov, nào cha con nhà Perecatchikov, toàn những nhà buôn kếch sù.
– Khẽ chứ, làm gì cứ oang oang lên thế. Ông khua mọi người dậy bây giờ.
– Ừ thì khẽ – Người vừa nói ngáp dài.
Người kia đề xuất:
– Này, ta chợp mắt một lát đi. Hình như tàu sắp chạy.
Trong lúc ấy, từ phía đuôi tàu chợt vang lên tiếng động mạnh, mỗi phút một dữ dội thêm, át cả tiếng thác đổ, rồi một chuyến tàu tốc hành kiểu cũ xầm xầm lao qua trên tuyến đường ray thứ hai, chốc lại vượt đoàn tàu đang đứng ở ga.
Chuyến tàu kia phóng hết tốc lực, kéo còi ầm ĩ, nhấp nháy đèn lần cuối cùng, rồi mất hút ở phía trước.
Trên sàn tàu, câu chuyện lúc nãy lại tiếp tục.
– Bây giờ thì tàu mình chuyển bánh được rồi.
– Chưa đâu.
– Vừa rồi chắc là Strelnikov. Đoàn tàu bọc thép đặc nhiệm mà.
– Chắc thế
– Gặp bọn phản cách mạng thì ông ấy đúng là một con dã thú.
– Ông ta đi đánh Galep đấy.
– Đi đánh ai kia?
– Đánh ataman 6 Galep. Người ta bảo hắn đang cùng quân Tiệp Khắc vây Yuratin. Hắn đã chiếm giữ bến tàu sông ataman Galep ấy mà.
– Tôi nhớ tên hắn là Galiep, bá tước Galiep.
– Chả bá tước nào có tên như thế. Phải là Ali Kuban. Ông nhầm tên lung tưng rồi.
– Cũng có thể là Kuban lắm.
– Thế thì lại là chuyện khác.
Gần sáng, Zhivago lại tỉnh dậy một lần nữa. Chàng lại vừa trải qua một giấc mơ thú vị. Cảm giác sung sướng và được giải phóng vẫn chan chứa trong lòng chàng. Tàu đang đứng yên, có thể ở ga mởi, cũng có thể vẫn ở ga cũ. Lại có tiếng thác nước, xem chừng vẫn cái thác nước nọ, nhưng một ngọn thác khác thì sao, biết đâu đấy.
Zhivago lại bắt đầu ngủ chập chờn, chàng nghe mơ màng có tiếng chân chạy, tiếng cãi cọ huyên náo. Kostet cãi nhau với viên chỉ huy đoàn âp giải, cả đôi bên đều to tiếng. Ngoài trời không khí còn trở nên dễ chịu hơn trước, toát ra một cái gì mới mẻ hơn trước. Một cái gì huyền diệu, xuân sắc, trắng pha đen, thưa mỏng, như cơn lốc tuyết tháng năm, khi các bông tuyết ẩm ướt đang tan rơi xuống không làm mặt đất trắng ra mà còn nhuộm nó đen hơn một cái gì trong suốt, trắng pha đen, thơm thơm. “À, hoa anh đào!” – Zhivago đoán biết trong giấc ngủ.
Sáng hôm sau, Tonia bảo chàng:
– Anh lạ thật đấy, Yuri ạ. Con người anh đầy những mâu thuẫn. Nhiều khi một con ruồi bay qua cũng đủ khiến anh thức giấc, trằn trọc cả đêm. Vậy mà đêm qua ở đây người ta ồn ào tranh cãi, nhốn nháo như ong vỡ tổ, anh vẫn ngủ tì tì một mạch. Hồi đêm “ông két” Pritulev và cậu Vasia Brykin trốn rồi. Anh thử tưởng tượng, cả Chiagunova và Ogryskova nữa nhé! Hượm đã, chưa hết. Cả Voroniuc. Vâng, vâng, Voroniuc trốn rồi, biến rồi. Anh có tưởng tượng nổi không? Mà này, chả hiểu bọn họ trốn đi cách nào, đi chung hay riêng từng người, ai trước ai sau nhỉ? Thật là vô cùng bí ẩn. Cứ cho rằng anh lính Voroniuc, sau khi phát hiện sự đào tẩu của hai tay kia, sợ trách nhiệm phải bỏ trốn, đã đi một nhẽ. Nhưng còn mấy người kia? Có thực là tất cả đều tự ý bỏ trốn, hay có người bị kẻ khác thủ tiêu? Chẳng hạn người ta nghi cho hai ả đàn bà. Nhưng ai giết ai, Chiagunova giết Ogryskova hay ngược lại, có trời biết.
Viên chỉ huy đoàn áp giải cứ chạy ngược chạy xuôi từ cuối tàu lên đầu tàu mà hét lớn: “Ông to gan thật, dám huýt còi cho tàu chạy. Nhân danh pháp luật, tôi yêu cầu hãm tàu lại cho đến khi tìm thấy bọn đào tẩu”. Nhưng trưởng tàu không chịu. Ông ta trả lời: “Anh điên rồi. Tôi chở viện binh ra mặt trận, được quyền ưu tiên số một và khẩn cấp. Bắt tôi phải chờ mấy đứa chấy rận của anh hả! Nói đến hay!”. Rồi cả hai, anh biết không, cùng khiển trách Kostet, tại sao một người am hiểu như ông ta, ở ngay bên cạnh Voroniuc, lại không can ngăn và giữ chân cái tên lính dốt nát, thiếu giác ngộ ấy, đừng để hắn hành động tai hại như vậy. “Thế mà cũng đòi là một nhà Dân tuý”, – họ nói mỉa. Còn Kostet thì dĩ nhiên đâu có chịu lép vế, ông ta trả miếng ngay: “Hay lắm! Nghĩa là theo ý các ông, thì tù nhân phải canh chừng lính áp giải hả? Nếu đúng như vậy, thì gà mái gáy thay gà trống rồi”. Em cứ lay vai, véo sườn anh mà gọi “Yuri dậy, dậy, người ta trốn!”. Thế mà anh thì… khéo đại bác có nổ bên tai cũng không đánh thức được anh… Nhưng thôi, chuyện đó để sau. Còn bây giờ, em chịu… Nhìn kìa, ba ơi, anh Yuri ơi, cảnh đẹp quá chừng!
Bên ngoài khuôn cửa sổ mà ba người đang nằm chụm đầu nhìn ra, trải rộng mênh mông một vùng hoàn toàn ngập nước. Ở một nơi nào đó, nước sông đã dâng lên tràn bờ và làm ngập đến sát mé đường tàu. Nằm trên tàu nhìn xuống, người ta có cảm tưởng con tàu đang lướt êm trên mặt nước. Hoạ hoằn, ở một vài chỗ, mặt nước mênh mông phẳng lặng kia mới bị rạch bởi đoạn đường xe lửa màu xanh sắt. Trên toàn bộ bề mặt còn lại, mặt trời rực rỡ buổi sớm mai đang dồn đuổi những mảng ánh sáng loang loáng, bóng nhẫy, như cô đầu bếp đang dùng cái lông chim phết bơ lên vỏ chiếc bánh vừa nướng xong. Cùng chìm nghỉm dưới khoảng nước mênh mông, tựa hồ vô bờ bến ấy, ngoài các đồng cỏ, hố rãnh, bụi cây, còn có cả những cột mây trắng cắm sâu xuống đáy nước như cọc nhà sàn. Đâu đó giữa khoảng trời nước bao la ấy, nổi lên một dải đất hẹp với những thứ cây kép mọc thẳng và chổng ngược lại, như treo lơ lửng giữa trời và đất.
– Vịt kìa! Một bầy vịt! – Giáo sư Gromeko kêu lên, mắt vẫn nhìn về một phía.
– Đâu ba?
– Cạnh cù lao kia kìa. Con nhìn chưa đúng chỗ rồi. Xế bên tay mặt một chút, chút nữa. Ôi, khỉ quá, chúng nó bay mất rồi, chắc chúng sợ tàu. Ô con nhìn thấy rồi. Con có câu chuyện này muốn thưa với ba. Để lần khác, khi có dịp, ba ạ. Còn về chuyện mấy người bỏ trốn, thì họ giỏi thật đấy. Và con thiết nghĩ, họ đã làm việc đó một cách bình yên. Chẳng để điều ác cho ai đâu. Họ đã chạy một cách tự nhiên như nước chảy, thế thôi.
Đêm trắng phương Bắc đang tàn dần. Tất cả đều có thể nhìn thấy rõ ràng, nhưng trông cứ mờ mờ ảo ảo như do trí tưởng tượng vẽ ra: núi, rừng cây, vách đá.
Cánh rừng nhỏ đã hơi xanh lá, có mấy bụi cây anh đào. Cánh từng mọc dưới một vách núi, trên một khoảng đất hẹp nhô ra và chạy dài được một quãng thì tới mép vực.
Gần đây có thác nước. Người ta chỉ nhìn thấy nó, khi đứng ở mép vực kia. Vasia đã mệt sau nhiều lần ra chỗ ấy ngắm thác nước, để cảm nhận nỗi kinh hoàng xen lẫn nỗi hân hoan.
Bốn bề xung quanh không có gì có thể sánh được với ngọn thác này, nó vô song. Chính sự vô song ấy khiến nó trở nên đáng sợ, biến nó thành một sinh vật có sức sống và ý thức, thành một con rồng thiêng hoặc một con rắn thần, bắt cả vùng Phải nộp cống vật và nó tàn phá mọi thứ.
Dòng thác đổ xuống đến lưng chừng thì vấp phải một mỏm đá nhô ra chia thành hai dùng. Cột nước ở nửa trên gần như bất động, nhưng hai vòi nước bên dưới thì hơi chao qua chao lại, tạo nên cảm giác là thác nước luôn luôn cứ trượt chân rồi lại gượng thẳng lên, cứ loạng choà loạng choạng nhưng vẫn đứng vững.
Vasia trải chiếc áo da dưới đất và nằm ở bìa rừng. Lúc trời sáng rõ hơn, một con chim to, hai cánh giang rộng từ trên núi bay xuống, lượng êm một vòng quanh cánh rừng nhỏ rồi đậu trên một ngọn cây linh sam, gần chỗ Vasia nằm. Cậu ngẩng đầu, nhìn cái cổ xanh thẩm và cái ức xanh xám của con chim rắcsa 7; khẽ thì thầm như niệm thần chú cái tên loài chim này ở Ural: “Rongia”. Sau đó cậu đứng dậy, nhặt chiếc áo da vắt lên vai và đi qua một khoảng đất trống tới chỗ người bạn đường của cậu. Cậu nói:
– Đi thôi, cô ạ. Cháu thấy cô rét run, răng đánh cầm cập rồi kìa. Ơ hay, làm gì mà cô nhìn hoảng hốt thế? Cháu bảo cô là ta phải đi thôi, cô hiểu chưa? Cô nên nhận ra tình cảnh của cô cháu mình, phải nhằm hướng có làng mà tới. Ở đấy bà con sẽ cứu giúp, che giấu ta, người đằng mình cả mà. Chứ cứ nằm một chỗ thế này thì chết đói mất. Hai hôm nay chả có miếng gì vào bụng rồi. Chắc cha Voroniuc đã làm ầm lên và chúng đang tìm kiếm chúng ta. Ta phải đi khỏi đây, cô Chiagunova ạ, nói toạc là phải chuồn ngay. Đi với cô chán mớ đời, suốt ngày cô chả nói được một lời? Cô buồn quá nên cứ nín thing. Nhưng cô buồn nỗi gì mới được chứ? Về phần cô Ogryskova, cô có cố ý xô ngã đâu, cô chỉ đẩy nhẹ vào sườn giục cô ấy nhảy xuống khỏi toa, cháu trông rõ mà. Sau đó, cháu thấy cô ấy từ dưới cỏ đứng dậy, tay chân nguyên vẹn, và cô ấy chạy luôn. Chú Pritulev cũng vậy. Họ sẽ theo kịp cô cháu mình. Cả bốn chúng ta lại ở bên nhau, cô nghĩ sao? Cái chính là cô đừng lo buồn. Lúc ấy cô sẽ nói như khướu ngay cho mà xem.
Chiagunova đứng dậy, đưa hai cho Vasia khoác và khẽ nói:
– Ừ thì ta đi, chú em.
Đoàn tàu ậm à ậm ạch leo dốc, trên nền đường khá cao. Bên dưới là một cánh rừng gồm nhiều loại cây còn non, ngọn cây không với cao bằng mặt đường. Dưới thấp nữa là cánh đồng cỏ, nước lụt mới rút hết. Cỏ lẫn với cát và bị các thanh tà vẹt bằng gỗ vứt ngổn ngang đè lên. Chắc các súc gỗ ấy được người ta chất đống ở một góc rừng gần đây, chờ thả bè xuôi dòng, nhưng đã bị nước lũ cuốn trôi tới chỗ này.
Cánh rừng non gần nền dường hầu như vẫn trơ trụi như về mùa đông. Chỉ những chồi non rải khắp trên cây như các giọt sáp là có một cái gì dư thừa, một cái gì mất trật tự, từa tựa bùn đất và mụn nhọt; song chính cái đó là sức sống đang thắp ngọn lửa màu diệp lục trên những cây cối bắt đầu đâm chồi nảy lộc trong rừng.
Đây đó có những cây bạch dương đứng ngay đơ như chịu trận, bị đâm thủng bởi các lưỡi răng và mũi tên nhỏ xíu của các chồi lá đang nở bung. Có thể dùng mắt xác định mùi thơm do chúng toả ra. Mùi thơm ấy cũng giống màu trắng nhạt của vỏ bạch dương. Đó là mùi rượu mêtilích dùng để chế vécni.
Lát sau, tàu đến chỗ người ta đã chất số gỗ bị nước cuốn đi đằng kia. Ở một khúc quẹo trong rừng, hiện ra một cánh ừng thưa rải rác khắp nơi toàn mạc cưa và mảnh gỗ vụn ở giữa có một đống gỗ cây đã được xẻ làm ba. Đến ngang chỗ đốn cây, người tài xế cho tàu đỗ lại. Con tàu rùng mình dừng lại ở tư thế hơi nghiêng nghiêng trên cái dốc cao, ngay giữa khúc quẹo Đầu máy kéo mấy hồi còi ngắn the thé. Có tiếng nói ta phát ra từ đấy. Nhưng không cần các tín hiệu ấy, hành khách cũng biết là tàu dừng lại để lấy chất dốt dự trữ.
Các cửa toa được đẩy ra. Đám đông, cỡ bằng dân số một thị trấn ùa cả xuống đường, trừ cánh lính thuỷ ở các toa đằng trước được miễn gọi tạp dịch và lần này họ cũng không tham gia việc chất củi với mọi người.
Những đống gỗ chất rải rác trong cánh rừng thưa không đủ để chất đầy toa than móc sau toa đầu máy. Phải xẻ thêm một số cây gỗ nữa thành ba tấm một.
Tổ thợ máy có sẵn cưa. Những người muốn cưa hợp thành từng cặp. Zhivago cùng nhạc phụ cũng nhận một chiếc. Từ trên các toa chở bộ đội, những bộ mặt vui vẻ thò ra ngoài cửa toa mở rộng. Những thiếu niên chưa từng trải qua lửa đạn, những học sinh sắp tốt nghiệp các trường hàng hải, tựa hồ bị đưa nhầm vào toa với những người thợ đạo mạo đã có gia đình – những người thợ lớn tuổi này cũng chưa hề ngửi mùi thuốc súng và vừa mới qua lớp huấn luyện quân sự cấp tốc, cố tình làm nhộn cả lên và đùa giỡn với dám lính thuỷ lão luyện, để khỏi phải nghĩ ngợi lung tung. Tất cả những người lính ấy đều cảm thấy sắp đến giờ thử thách. Họ ném theo những nam nữ hành khách đi cưa gỗ mấy lời chọc ghẹo kèm theo tiếng cười đủ giọng:
– Ê ông nội ơi! Nội bảo người ta là nội vẫn còn đang bú tí mẹ, nội không biết lao động chân tay, thế là được miễn luôn.
– Ê Mavra, chớ có cưa rách váy, kẻo gió máy thổi vào thì khổ!
– Này cô em! Đừng đi vào rừng nữa, lên đáy với anh đi.
Trong rừng sẵn có mấy cái giá cưa gỗ, làm bằng hai chiếc cọc đóng chéo nhau, chắn cọc cằm cứng xuống đất. Zhivago cùng nhạc phụ tới một cái giá trống và bắt đầu cưa.
Vào độ này của mùa xuân, đất lộ ra khỏi tuyết gần như dưới cái dạng nó sắp bị tuyết vùi sáu tháng trước đây. Rừng bốc lên mùi ẩm thấp và trải đầy lớp lá năm ngoái, như một căn phòng vứt la liệt các mảnh hoá đơn, thư từ, giấy má bị xé vụn suốt nhiều năm liền mà không được quét dọn.
– Ba đừng kéo nhanh như vậy, sẽ chóng mệt, – Zhivago khuyên giáo sư Gromeko, đồng thời kéo cưa từ từ và đều tay hơn, rồi đề nghị nghỉ giải lao một chút.
Trong rừng vang lên tiếng xèn xẹt xèn xẹt của những chiếc cưa khác đang kéo đi kéo lại có lúc đều nhịp, có lúc không ăn nhịp với nhau. Ở một nơi nào đó rất xa, con hoạ mi thứ nhất đang thử giọng. Với khoảng ngừng còn lâu hơn, một chú sáo bụi bặm đã lâu chưa được dùng. Thậm chí hơi nước từ nắp hơi đầu máy phụt ra, bay lên trời, cũng nghe ùng ục như tiếng sữa sôi trên bếp cồn, trong phòng nuôi trẻ của gia đình.
– Anh định nói chuyện gì với tôi thì phải, – Giáo sư Gromeko nhắc. – Anh nhớ không? Lúc tàu chạy ngang qua cánh đồng ngập nước và bầy vịt trời bay lên, anh bảo “Con có chuyện này muốn thưa với ba”.
– À vâng, con nhớ rồi. Con chưa biết diễn đạt thế nào cho ngắn gọn. Ba thấy đó, mỗi lúc ta đang đi sâu thêm vào vùng Ural… Cả vùng này đang xáo động. Vài hôm nữa, ta sẽ đến nơi. Chưa biết điều gì chờ ta ở đấy. Đề phòng bất trắc, nên thoả thuận trước giữa hai cha con. Con không nói đến niềm tin đâu. Sẽ vô lý, nếu định làm sáng tỏ hoặc xác định niềm tin trong dăm phút trò chuyện giữa cánh rừng mùa xuân. Cha con ta biết rõ về nhau. Ba người chúng ta, ba, con, và Tonia, cùng với nhiều người khác, ngày nay đang tập hợp thành một giới, chỉ khác nhau về mức độ nhận thức cái giới ấy. Đó cũng không phải điều con muốn đề cập. Chuyện đó quá sơ đẳng. Con muốn nói chuyện khác. Ta cần thoả thuận trước với nhau về cách ứng xử trong một số hoàn cảnh, để khỏi hổ thẹn vì nhau và khỏi làm nhục mặt nhau.
– Thôi ba hiểu ý anh rồi. Ba thích cách đặt vấn đề của anh. Anh đã tìm thấy đúng những chữ cần thiết. Còn đây là điều ba muốn nói với anh. Anh có nhớ cái đêm anh mang về tờ báo in các sắc lệnh đầu tiên, dạo mùa đông, trong một đêm bão tuyết ấy? Chắc anh nhớ cái giọng quả quyết chưa từng thấy?
Sự thẳng thắn ấy đã chinh phục mọi người. Nhưng những thứ ấy chỉ sống trong sự trong trắng nguyên thuỷ, trong đầu óc những người tạo lập ra chúng và cũng chỉ trong ngày đầu tiên công bố chúng mà thôi. Thói xảo quyệt chính trị ngay hôm sau đã lộn trái chúng ra. Ba biết nói gì với anh nhỉ? Thứ triết lý ấy xa lạ với ba. Chính thể này chống lại chúng ta. Người ta không thể hỏi xem ba có đồng ý về sự đập phá này hay không. Nhưng người ta đã tin ba, còn các hành động của ba, ngay cả khi ba bị ép buộc phải thực hiện, vẫn trói buộc ba vào trách nhiệm.
Tonia nó hỏi ba, liệu chúng ta có đến kịp để trồng rau đậu hay không, có bỏ lỡ thời vụ gieo trồng hay không. Biết trả lời nó thế nào? Ba không biết rõ đất đai và điều kiện khí hậu vùng này. Mùa hè quá ngắn. Liệu nói chung có thứ hoa trái gì chưa kịp chín ở đây chăng?
Ừ nhưng phải chăng ta bỏ đến phương xa này là để trồng rau? Ở đây thậm chí không thể nói đùa “ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng”, bởi vì tiếc rằng ta đã chạy những ba bốn ngàn quãng kia. Không, nói thực ra, chúng ta cất công lặn lội đến phương trời xa này hoàn toàn vì một mục đích khác. Chúng ta đến để sống lay lắt cho qua ngày đoạn tháng theo kiểu thời nay và tìm cách tham dự vào việc phung phí những cánh rừng, máy móc thiết bị và tài sản của ông nội. Không phải phục hồi quyền sở hữu cợ nghiệp, mà là phá tán, phung phí công cộng hàng ngàn rúp, để lấy vài xu mà tồn tại, một sự tồn tại đúng hệt như tất cả mọi vật, dưới dạng hỗn loạn, ngoài sức tưởng tượng hiển thời. Có các vàng tôi cũng không nhận là nhà máy để làm ăn theo cách cũ, dù người ta biếu không tôi đi nữa.
Chuyện đó cũng kỳ quái, chẳng khác nào cởi truồng chạy rông hoặc trở lại mù chữ. Không, lịch sử sở hữu đã chấm dứt ở nước Nga. Còn gia đình ba, dòng họ Gromeko, thì đã từ bỏ ham muốn làm giàu từ đời trước rồi.
Không tài nào ngủ được vì ngột ngạt và nóng bức. Đầu bác sĩ Zhivago đầm đìa mồ hôi, thấm ướt cả gối.
Chàng cẩn thận từ trên chỗ nằm tụt xuống sàn toa và rón rén, để khỏi khua thức mọi người, mở hé cửa toa.
Hơi ẩm phả vào mặt chàng, nhơm nhớp như lúc trong hầm rượu khi chạm mặt vào cái mạng nhện. “Sương mù – chàng đoán, – Ngày mai chắc sẽ nắng nóng lắm đây. Thảo nào thấy khó thở và nặng đầu quá”.
Trước khi trèo xuống đường, chàng đứng bất động ở cửa toa và lắng nghe xung quanh.
Tàu đỗ ở một ga rất lớn, thuộc loại ga đầu mối. Ngoài sương mù và sự vắng lặng, các toa tàu còn chìm vào một trạng thái phi tồn tại nào đó, như bị bỏ rơi, bị người ta quên bẵng đi, chứng tỏ đoàn tàu đậu ở cái xó xa nhất của ga, cách biệt với toà nhà ga ở ht đằng xa bởi một mạng lưới đường ray nhằng nhịt vô tận.
Có hai loại âm thanh nghe văng vẳng từ đằng xa.
Đằng sau, phía cuối tàu, là tiếng vỗ đều đều như thể ở đó người ta đang giũ quần áo dưới sông, hoặc gió làm cho một lá cờ ướt sũng đập phần phật vào cán cờ.
Đằng trước là một tiếng gầm ầm ầm khiến bác sĩ Zhivago, một người từng ở ngoài mặt trận, phải rùng mình và dỏng tai lên.
“Đại bác tầm xa”, – chàng kết luận khi lắng nghe tiếng vang vọng đều đều, trầm trầm, ình ình, chắc nịch.
“Thế là đến sát mặt trận rồi”, – Zhivago nghĩ thầm. Chàng lắc đầu và nhẩy xuống khỏi toa.
Chàng đi về phía trước mất bước. Sau hai toa, đoàn tàu đứt đoạn, không còn đầu máy. Nó đã kéo hơn mười toa đằng trước chạy biến đi từ hồi nào rồi.
“Thảo nào hôm qua đám lính bạo mồm bạo miệng thế, – Zhivago nghĩ bụng. – Họ cảm thấy rõ rằng khi người ta chở họ đến nơi là sẽ tung ngay vào lửa đạn”.
Chàng vòng sang phía bên kia tàu, định bước qua đường ray để tìm lối vào nhà ga. Chợt từ góc toa, một người lính gác cầm súng hiện ra như ở dưới đất chui lên, hỏi cộc lốc:
– Đi đâu? Giấy thông hành!
– Đây là ga nào vậy?
– Chẳng ga nào hết. Anh là ai đã?
– Tôi là bác sĩ ở Moskva tới. Tôi cùng gia đình đi trên chuyến tàu này. Giấy tờ của tôi đây.
– Mặc xác các thứ giấy tờ của anh. Tôi không dại gì xem giấy của anh trong bóng tối cho nó hỏng mắt đi. Không thấy sương mù à. Chỉ cần giấy tờ, đứng cách xa hàng dặm cũng biết ngay anh thuộc loại đốc- tờ nào. Những ngài đốc- tờ như anh, người ta đang nã pháo mười hai in- sơ chết cả đống. Tôi có thể đòm cho anh một phát, nhưng hơi sớm. Xéo lui ngay, trong lúc còn nguyên lành.
“Họ nhầm mình với ai đó”, Zhivago nghĩ bụng. Tranh cãi với gã lính gác chỉ vô ích. Tốt nhất, đúng là rút lui, khi chưa muộn. Chàng bèn quay gót đi ngược lại.
Tiếng đại bác đã lắng hẳn phía sau lưng chàng. Đấy là phía Đông. Tử trong sương mù, mặt trời nhô lên, trông lờ mờ qua những mảng sương mù đang bay qua, những mảng sương mù trông như các bóng người ở truồng trong đám mây hơi nước lẫn bọt xà phòng của một nhà tắm hơi.
Zhivago đi dọc các toa. Chàng đã đến cuối tàu và cứ đi tiếp Mỗi lúc chân chàng càng lún sâu hơn xuống lớp cát mềm.
Tiếng vỗ đều đều cũng mỗi lúc một gần. Mặt đất thoai thoải xuống dốc. Sau vài bước nữa, Zhivago dừng lại trước những cái bóng đen mờ mờ mà sương mù làm cho chúng nhòe đi và to ra khác thường. Thêm bước nữa, chàng thấy đó là các mũi thuyền của những con thuyền bị kéo lên bờ cát… Chàng đang đứng trên bờ một dòng sông rộng. Dòng sông uể oải và chậm rãi vỗ các đợt sóng lăn tăn lười biếng vào các mạn thuyền đánh cá và các tấm ván bắc làm bến thuyền.
– Ai cho phép anh mò mẫm ở đây? – một người lính gác khác chợt từ dưới bờ hiện ra, hỏi.
– Đây là sông gì vậy? – câu nói buột miệng Zhivago, mặc dù chàng hoàn toàn không định hỏi bất cứ điều gì sau kinh nghiệm mới rồi.
Thay vì trả lời, người lính gác đưa còi lên miệng định thổi nhưng chưa kịp sử dụng nó. Người lính gác thứ nhất mà anh ta định đổi còi gọi tới, đã đến, – thì ra từ nãy hắn vẫn bí mật bám theo bác sĩ từng bước Khỏi cần suy nghĩ gì ráo. Trông mặt, đủ bắt hình dong.
“Đây là ga gì thế, đây là sông gì thế. Hắn âm mưu làm cho ta bị lạc hướng đấy. Theo cậu thì sao, đưa hắn ra cái mỏm kia rồi cho xuống hầu hà bá, hay là điệu về toa?
– Mình cho rằng nên giải về toa. Coi ông chỉ huy bảo sao đã Đưa thẻ tuy thân! – người lính canh thứ hai quát và chộp lấy xếp giấy mà Zhivago chìa ra.
– Để ý nhé, ông bạn đồng hương, chả biết anh ta nói với ai, rồi cùng người lính gác thứ nhất đi về phía nhà ga.
Bấy giờ, một người nằm trên cát, chắc là dân đánh cá, mới cựa mình, đằng hắng nói cho bác sĩ biết:
– Chúng nó dẫn anh lên gặp cấp chỉ huy cao nhất là phúc cho anh lắm đó. Nếu cấp chỉ huy là người tốt, ông sẽ thoát nạn. Nhưng ông đừng thù oán chúng nó. Bọn nó của chúng phải thế. Thời đại của dân mà lại. Có lẽ như vậy sẽ hay hơn. Chứ hiện nay thì chả ra sao. Hai đứa chúng nó, ông thấy đó, đã nhầm. Chúng nó đang tìm bắt một kẻ nào đấy. Chúng nó nhầm. Nếu có chuyện gì, ông hãy cố đòi gặp vị chỉ huy cao nhất. Đừng nộp mạng cho chúng nó.
Tụi này giác ngộ lắm. Thật là tai hoạ, lạy Chúa. Chúng nó có thể khử ông dễ như trở bàn tay. Nếu chúng bảo “đi” thì ông chớ đi. Ông hãy nói – tôi cần gặp đồng chí chỉ huy cao nhất.
Qua lời người dân chài ấy, Zhivago được biết rằng chàng đang đứng bên dòng sông Ryva trứ danh, tàu bè có thể đi lại dễ dàng, rằng nhà ga kia tên là Razvilie, một vùng kỹ nghệ ven sông ở ngoại ô thành phố Yuratin. Chàng được biết, rằng Yuratin chỉ cách đây có hai, ba dặm về mạn thượng lưu, bao lâu nay bị giành giật ngang ngửa giữa Hồng quân với bạch vệ, và hình như bây giờ Hồng quân đã chiếm được hoàn toàn. Người dân chài kể rằng, cả ở Razvilie cũng đã xảy ra nhiều vụ lộn xộn và hình như cũng đã được dẹp yên, rằng sở dĩ bốn bề yên tĩnh như thế này, là vì người ta đã đưa toàn bộ thường dân ra khỏi khu vực kế cận nhà ga bố trí vành đai canh giữ rất nghiêm ngặt. Cuối cùng, Zhivago được biết thêm rằng trong số các đoàn tàu, với các cơ quan quân sự bố trí trên đó, đang đậu trong ga, có một đoàn tàu đặc biệt của Tư lệnh quân khu Strelnikov, và hai chú lính vừa rồi cầm giấy tờ của bác sĩ mang tới toa của vụ tư lệnh đó.
Một lúc sau, từ phía ấy có một người lính gác thứ ba tiến đến chỗ Zhivago. Anh này khác hai anh trước ở chỗ cứ kéo lê đuôi súng trên mặt đất hoặc đùng chân hất nó về phía trước, hệt như đang xốc nách một anh bạn say rượu bước đi, một người mà nếu không có anh lính kia giúp đỡ thì sẽ ngã xấp xuống đất. Anh ta giải bác sĩ Zhivago về toa vị tư lệnh.
Anh ta trao đổi mật với tay vệ sĩ, rồi cùng bác sĩ leo lên một trơng hai toa xa- lông được nối kín với nhau qua một lối đi bằng da gấp. Khi hai người bước vào, tiếng cười và sự chuyển động bên trong lập tức im bặt.
Anh lính gác người dẫn Zhivago qua một hành lang hẹp tới khoảng rộng ở giữa toa. Ở đây yên tĩnh, ngăn nắp và sạch sẽ Mấy người ăn mặc chỉnh tề, sạch sẽ đang làm việc. Zhivago đã hình dung khác hẳn cái hành dinh của Strelnikov, một chuyên viên quân sự không đảng phái, người mà chỉ trong thời gian ngắn đã trở thành niềm kiêu hãnh và nỗi kinh hoàng của cả một tỉnh.
Nhưng chắc trung tâm hoạt động của ông ta phải đặt ở một nơi nào khác, ở bản tham mưu mặt trận, gần nơi xảy ra chiến sự hơn, còn đây chỉ là đơn vị riêng của ông ta, một thứ văn phòng riêng ở nhà và một nơi ăn nghỉ lưu động theo kiểu dã chiến.
Vì thế ở đây yên tĩnh như ở trong các hành lang phòng tắm nước nóng dưới tàu biển, nơi được lát bằng các tấm li- e và các tấm thảm nhỏ, và các nhân viên phục vụ đi giầy mềm bước đi trên đó nhẹ như ru.
Cái văn phòng này vốn là toa ăn, được trải thảm và đã biến thành phòng chỉ huy hành quân. Ơ đấy có mấy chiếc bàn.
– Chờ một phút, – một quân nhân trẻ tuổi, ngồi gần lối vào nói. Bằng cử chỉ cúi đầu lơ đãng, anh ta làm hiệu cho người lính áp giải bác sĩ ra bên ngoài, và anh kia liền lui ra, vừa đi vừa va cái đuôi súng lộc cộc vào các thanh ngang bằng kim loại hành lang. Còn sau câu nói của viên sĩ quan trẻ vừa rồi, tất cả mọi người ngồi bên các bàn làm việc đều cho là mình có quyền quên hẳn bác sĩ và chẳng buồn để ý đến chàng nữa.
Đứng ở lối vào, Zhivago thấy giấy tờ của mình nằm ở mép chiếc bàn cuối cùng, trước mặt một quân nhân đứng tuổi, vui vẻ như một viên đại tá của chế độ cũ. Đó là một chuyên viên thống kê quân sự: ông ta vừa lẩm bẩm một mình, vừa xem các tài liệu tra cứu, các bản đồ quân sự, đối chiếu, so sánh, cắt, dán những mẩu giấy gì đó. Ông ta đưa mắt nhìn tất cả các cửa sổ trong toa, rồi nói: “Hôm nay sẽ nóng đây” tựa hồ ông ta rút ra kết luận ấy, sau khi quan sát tất cả các cửa sổ, chứ quan sát một cửa thì chưa đủ rõ.
Trên sàn, một kỹ thuật viên quân đội đang bò giữa các gầm bàn để nối một đường dây điện nào đó bị hư. Lúc người ấy bò vào gầm bà viên sĩ quan trẻ, anh này dứng dậy để khỏi làm vướng người kia. Ở bàn bên cạnh, cô thư ký mặc áo bludông nam giới, màu cỏ úa, đang loay hoay với cái máy chữ bị hỏng. Trục máy chạy quá về một bên, bị mắc kẹt ở giữa giàn máy. Viên sĩ quan trẻ đến đứng sau chiếc ghế đẩu của cô và cùng cô tìm hiểu nguyên nhân hư hỏng ở trục máy. Anh kỹ thuật viên bò sang gầm bàn cô thư ký và quan sát các cần đẩy cùng bộ phận truyền động của máy chữ từ bên dưới. Ông chuyên viên thống kê đang ngồi cũng đứng dậy đi sang bên chỗ ba người này để cùng sửa cái máy chữ.
Điều đó khiến bác sĩ Zhivago yên tâm. Thật khó tưởng tượng rằng những người phải biết rõ số phận đang chờ đợi chàng lại có thể vô tình đến thế, chỉ chú tâm đến những chuyện nhỏ nhặt trước mặt một người sắp bị xử tội.
“Nhưng đố ai biết họ ra sao”, – chàng tự nhủ. – “Vì sao họ lại bình tĩnh như thế? Ngay gần đâu đây đại bác đang nố, người ta đang chết, thế mà họ dự báo ngày nóng – cái nóng của thời tiết chứ không phải của chiến trường sôi động.
Hay là họ đã chứng kiến quá nhiều điều, đến nỗi mọi cảm giác của họ đã trở nên chai đá?”.
Và chẳng biết làm gì, chàng bèn vơ vẩn nhìn xuyên qua phòng về phía cửa sổ đối diện.
Phía trước đoàn tàu, tính từ phía này, là phần đường ray trải dài ra và thấy rõ nhà ga nằm trên sườn núi, trong vùng ngoại ô trùng tên với ga Razvilie.
Một cái cầu thang gỗ; chia làm ba khoảng, dẫn từ đường ray lên nhà ga. Gỗ cầu thang không được quét sơn.
Các đường ray từ phía này là một thứ nghĩa địa đầu máy khá rộng. Những cái đầu máy cũ, không có khoang chở than, với các ống khói hình chiếc chén hay hình ống giày, đứng hướng ống khói vào nhau giữa hàng đống sắt vụn của các toa xe phế thải.
Cái nghĩa địa đầu máy ở phía dưới và cái nghĩa trang của thị trấn ở phía trên núi, những đống sắt cong queo dưới đường tàu các mái nhà và các cửa bảng hiệu sét gỉ của thị trấn ngoại ô hợp thành một cảnh tượng nát cũ và hoang phế dưới cái bầu trời trăng trắng vừa mới sáng ra đã nóng hầm hập.
Ở Moskva, bác sĩ Zhivago không quên không để ý ở các đô thị có những biểu hiện hay không và chúng che khuất mặt tiền các nhà tới chừng nào. Các biển cửa hiệu nơi đây nhắc chàng nhớ lại điều đó. Một nửa số biển hiệu ấy được kẻ bằng các chữ cái lớn đến nỗi đứng trên tàu cũng đọc rõ. Chúng treo thấp xuống các cửa sổ của những ngôi nhà một tầng xiêu vẹo đến nỗi các ngôi nhà nhỏ, thấp lè tè ấy bị che khuất hẳn, y như những cái đầu của các chú bé nhà quê đội sùm sụp loại mũ cát- két của cha.
Lúc này sương mù đã tan hẳn. Chỉ còn để lại vết mờ mờ ở phía trái bầu trời – ở phía Đông xa xa. Nhưng tại đó, chúng cũng động đậy, xê dịch, rồi tản đi như hai cánh màn sân khấu.
Ở đằng ấy, cách Razvilie khoảng ba dặm, trên một ngọn đồi cao hơn thị trấn ngoại ô, nổi lên một thành phố lớn, là trung tâm của tỉnh hoặc khu. Mặt trời làm cho các màu sắc của thành phố mang ánh vàng nhạt, khoảng cách thì làm cho các đường nét của nó trở nên đơn giản. Nó nằm thành từng lớp trên sườn đồi, nhà nọ trên nhà kia, phố nọ trên phố kia, với ngôi nhà thờ lởn trên đỉnh. Trông nó giống như núi Aphôn hoặc các trai phòng của các thầy tu khổ hạnh trên một bức tranh rẻ tiền.
“Yuratin?” – Zhivago xúc động nghĩ thầm. “Bà Anna Ivanovna quá cố và nữ y tá Lara đã bao lần nhắc tới chốn này. Bao lần mình đã nghe họ nhắc đến tên nó, ai ngờ lại trông thấy nó lần thứ nhất trong hoàn cảnh thế này đây!”.
Lúc này, sự chú ý của bốn nhân quân đang sửa máy chữ bị thu hút bởi một điều gì đó ở bên ngoài cửa sổ. Họ quay đầy về phía đó. Zhivago cũng nhìn theo hướng nhìn của họ.
Mấy tù binh hoặc thường dân bị bắt giữ đang bị áp giải theo cầu thang gỗ vào ga. Trong số ấy có một học sinh trung học bị thương ở đầu. Người ta đã tạm băng bó cho cậu, nhưng máu vẫn chảy ri rỉ ở chỗ băng và cậu ta cứ lấy tau bôi nhoen khắp khuôn mặt sạm nắng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại.
Bị kèm giữa hai chiến sĩ Hồng quân, cậu học sinh đi ở cuối tốp khiến người ta chú ý không chỉ vì vẻ c tơng nghị toát ra từ khuôn mặt tuấn tứ của cậu và sự thương hại mà một tên bạo loạn quá trẻ như cậu gợi ra. Người ta chú ý còn vì cậu và hai chiến sĩ đi kèm có những hành động hết sức phi lý. Cả ba cứ luôn luôn làm những việc không nên làm.
Cái mũ lưỡi trai nhà binh của cậu học sinh chốc chốc lại tụt khỏi mái đầu bị băng bó. Thay vì lột nó ra và cầm ở tay, cậu ta cứ luôn tay sửa lại và kéo sụp xuống lảm ảnh hưởng đến vết thương đã băng bó. Cả hai chiến sĩ Hồng quân cũng luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ cậu ta làm việc đó.
Sự vô lý trái nghịch với ý nghĩ sáng suốt ấy chứa đựng một cái gì mang tính chất tượng trưng, một cái gì đa nghĩa.
Bác sĩ Zhivago cũng muốn chạy ra sân ga ngăn cậu học sinh đừng làm thế nữa, bằng một câu danh ngôn có sẵn, lúc này chỉ chực buột ra khỏi miệng. Chàng muốn nói to lên cả với cậu bé kia, lẫn với những người đang ở trong toa, rằng sự cứu chuộc không nằm trong sự trung thành với các hình thức, mà trong sự giải thoát khỏi các hình thức.
Bác sĩ quay đi. Strelnikov vừa bước vào với những bước đi thẳng, nhanh nhẹn và đứng ở giữa toa.
Tại sao trong biết bao cuộc gặo gỡ làm quen tình cờ, cho đến tận bây giờ bác sĩ Zhivago vẫn chưa hề biết mặt một nhân vật rõ ràng như người đàn ông này? Tại sao cuộc đời không đưa hai người lại gặp nhau? Tại sao đường họ đi lại chẳng giao nhau?
Không hiểu vì lẽ gì có thể thấy rõ ngay lập tức, rằng Strelnikov là hiện thân của ý chí trọn vẹn. Anh ta là người đúng như anh ta muốn, đến mức hết thảy mọi cái ở diện mạo bề ngoài và nội dung bên trong của anh ta đều nhất thiết phải có vẻ mang tính mẫu mực. Cả mái đầu cân đối và có dáng rất đẹp cả bước đi nhanh nhẹn, cả đôi chân dài xỏ trong đôi ủng cao, một đôi ủng dù bẩn mà vẫn có vẻ bóng, cả chiếc áo va- rơi bằng dạ xám, có lẽ hơi nhàu, song vẫn gây ấn tượng được may bằng loại vải phíp và được ủi cẩn thận.
Đây là tác động của sự hiện diện tài năng, một tài năng tự nhiên, không chút kiểu cách, một tài năng cảm thấy mình đang ung dung trên yên ngựa trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống trần tục.
Con người ấy phải có một tài năng, không nhất thiết là độc đáo. Nó toát ra từ mọi cử chỉ của anh ta, nó có thể là tài bắt chước. Hồi ấy, tất cả mọi người đều bắt chước ai đó. Bắt chước các nhân vật mình thấy ngoài mặt trận hoặc trong những ngày khởi nghĩa ở đô thị – những nhân vật kịch tính mạnh trí tưởng tượng. Bắt chước các vị đại diện có uy tín nhất của nhân dân, bắt chước những bạn hữu thành đạt. Đơn giản là bắt chước lẫn nhau.
Vì phép lịch sự, Strelnikov không để lộ rằng sự hiện diện của người lại khiến anh ta ngạc nhiên hay e ngại. Trái lại, anh ta nói với tất cả mọi người, với vẻ mặt như thể anh ta coi bác sĩ Zhivago cũng thuộc bộ tham mưu của họ.
Strelnikov nói:
– Xin chúc mừng. Chúng ta đã đánh bật chúng đi. Cứ như một cuộc tập trận, chứ không phải là đánh nhau thật, bởi vì bọn chúng cũng là người Nga như ta cả thôi, có điều là chúng ngu ngốc và tự chúng không muốn rũ bỏ nó đi, nên ta đành phải dùng sức mạnh để gột rửa nó. Kẻ chỉ huy bọn chúng vẫn là bạn tôi. Xét nguồn gốc xuất thân, hắn còn vô sản hơn cả tôi. Hai đứa chúng tôi cùng lớn lên ở một khu nhà. Hắn đã giúp tôi nhiều việc trong đời, tôi chịu ơn hắn. Song tôi rất vui vì đã đẩy lùi hắn sang bên kia sông và có lẽ còn đuổi xa hơn. Này đồng chí Gurian, hãy khẩn trương nối lại đường dây liên lạc. Không thể chỉ trông vào thư từ và điện tín. Các đồng chí có để ý thấy trời nóng thế nào không? Vậy mà tội cũng ngủ được gần tiếng rưỡi cơ đấy. À, phải rồi…- anh ta chợt nhớ và quay sang bác sĩ.
Anh ta chợt nhớ ra cái lý do đã khiến người ta đánh thức anh dậy: người lạ mặt đứng đây bị bắt giữ vì một chuyện không đâu.
“Người này à?” – Strelnikov nghĩ thầm và soi mói nhìn bác sĩ từ đầu xuống chân. – “Chả giống tí nào. Các cậu ấy ngốc quá!” – Anh ta cười to và nói với Zhivago:
– Xin đồng chí tha lỗi. Họ đã nhầm đồng chí với một kẻ khác. Anh em lính gác nhầm lẫn. Đồng chí được tự do. Sổ lao động của đồng chí này đâu? À, giấy tờ của đồng chí đây rồi. Tôi xin lỗi tọc mạch, để tôi ngó qua một chút.
Zhivago… Zhivago… Bác sĩ Zhivago… Dân Moskva đây… Dẫu sao cũng xin mời đồng chí sang phòng tôi một chút. Đây là ban thư ký, còn toa của tôi ở bên cạnh. Xin mời. Tôi sẽ không giữ chân đồng chí lâu đâu.
Tuy nhiên, thực ra Strelnikov là ai nhỉ?
Thật lạ lùng khi một người ngoài Đảng, không ai biết tới, lại có thể được đề bạt và đứng vững ở một cương vị cao như vậy Người ta không biết Strelnikov, vì tuy sinh trưởng ở Moskva nhưng sau khi tốt nghiệp đại học, anh ta đã đi dạy học ở một tỉnh lẻ, rồi ra trận, bị bắt làm tù binh, bị coi là đã hy sinh và vắng mặt mãi cho đến thời gian gần đây.
Bác công nhân hoả xa Tiverzin, một người tiên tiến, từng nuôi dưỡng Strelnikov hồi anh này mới lởn đã giới thiệu và bảo đảm lý lịch cho anh ta. Những vị có thẩm quyền định đoạt việc bổ nhiệm thời đó, đã tin anh ta. Trong những ngày hừng hực nhiệt tình, với bao quan điểm cực đoan ấy, chất cách mạng của Strelnikov, một người cũng không dừng lại trước bất kỳ điều gì đã nổi bật lên nhờ tính đích thực của nó, nhờ sự cuồng tín của chính mình, chứ không phải “hót” theo kẻ khác, một sự cuồng tín đã được chuẩn bị bằng toàn bộ cuộc đời anh ta, chứ chẳng phải ngẫu nhiên.
Strelnikov tỏ ra xứng đáng với sự tin cậy mà người ta dành cho anh. Thành tích chiến đấu của anh trong thời gian vừa qua gồm có việc giải quyết các vụ việc ở xã Ust- Nemda và Nigiơni- Kenmet, vụ các nông dân ở Gubasov võ trang chống đối trưng thu lương thực, vụ trung đoàn bộ binh số mười bốn cướp phá đoàn tàu chở lương thực ở ga Hang Gấu, vụ bạo loạn ở thành phố Tuacatui của bọn lính tự xưng là quân Radin 8. Bọn này đem vũ khí chạy sang hàng ngũ quân bạch vệ; rồi vụ bạo loạn của binh lính ở bến tàu Chiakin giết chết một người chỉ huy trung thành với chính quyền Xô viết.
Trong tất cả những vụ đó, Strelnikov, đều ập đến tấn công kẻ thù bất thình lình, đều lập phiên toà, kết án, thực hiện bản án một cách nhanh chóng, cứng rắn, không chút run tay.
Đoàn tàu bọc thép của anh lao tới chỗ này chỗ khác, đã chấm dứt cái bệnh đào ngũ hàng loạt xảy ra trong khu. Việc thanh tra các cơ quan trưng binh đã làm thay đổi hẳn tình hình. Việc tuyển người vào Hồng quân bắt đầu mang lại kết quả tốt đẹp. Các ban tiếp nhận bắt đầu hoạt động sôi nổi.
Sau hết, mới đây, khi bọn bạch vệ từ phía Bắc tràn xuống và tình thế trở nên nghiêm trọng, thì người ta trao cho Strelnikov những nhiệm vụ mới, những nhiệm vụ quân sự trực tiếp mang tính chiến lược và chiến thuật. Những kết quả công tác của anh, chả phải chờ lâu mới thấy.
Strelnikov (xạ thủ) biết rằng dư luận đồn đại, gọi anh là Ratrennikov (sát thủ). Anh thản nhiên bước qua chuyện đó anh chả sợ gì hết.
Anh sinh trưởng ở Moskva và là con một người thợ từng tham gia cuộc cách mạng năm 1905 và bị lưu đày vì tội đó. Bản thân anh bấy giờ đứng ngoài phong trào cách mạng vì còn nhỏ. Sau này, khi anh là sinh viên đại học, anh cũng chưa tham gia, bởi lẽ những thanh niên con nhà nghèo vươn lên tới bậc cao đẳng thường coi trọng chuyện học hành và siêng năng hơn con nhà giàu. Sự bất mãn của đám sinh viên dòng dõi khá giả không ảnh hưởng tới anh. Anh ra trường với vốn kiến thức rộng lớn. Ngoài học vấn về Lịch sử và Văn chương, anh đã tự học môn Toán.
Được miễn quân dịch, song anh đã tình nguyện ra trận, anh bị quân Đức bắt làm tù binh lúc đang là thiếu uý và đã vượt ngục trở về tổ quốc vào cuối năm 1917, khi nghe tin cách mạng bùng nổ ở nước Nga.
Anh nổi bật qua hai nét tính cách, hai niềm ham mê. Anh suy xét rõ ràng và chính xác khác thường. Và anh biết sử dụng cái tài trong sạch và công tâm về đạo lý đến mức hiếm thấy, tình cảm của anh cuồng nhiệt và cao thượng.
Nhưng để làm một nhà khoa học khai phá những con đường mới, thì trí tuệ anh không đủ cái tài vô tâm vô tính, cái sức mạnh dùng những phát hiện ngoài dự kiến để phá vỡ tính cân xứng vô bổ của sự dự đoán viển vông.
Còn để làm điều thiện, thì tính nguyên tắc của anh lại thiếu cái tính phi nguyên tắc của trái tim, – trái tim không biết đến những trường hợp chung, chỉ biết các trường hợp riêng, và trái tim vĩ đại ở chỗ nó chỉ làm những việc nhỏ nhoi.
Từ bé, Strelnikov đã cố vươn tới điều cao cả và trong sáng nhất. Anh coi cuộc sống là cái đấu trường rộng mênh mông, nơi mọi người tuân theo các thể lệ một cách trung thực, đua tranh với nhau đạt tới sự hoàn thiện.
Khi té ra không phải như vậy, thì anh không nghĩ ra rằng việc anh đơn giản hoá trật tự thế giới là sai. Anh bèn chôn sâu mối hận trong lòng, bắt đầu nuôi ý tưởng sẽ có ngày trở thành vị quan toà phán xét giữa cuộc sống và những thế lực đen tối làm hoen ố nó, sẽ bảo vệ cuộc sống và trả thù cho nó.
Sự thất vọng làm cho anh tàn nhẫn. Cách mạng đã vũ trang cho anh.
– Zhivago, Zhivago. – Strelnikov cứ nhắc đi nhắc lại khi hai người đã bước sang toa của anh ta. – Tên một thương gia. Hay một nhà quý tộc. Ư phải, một bác sĩ ở Moskva đến Varykino. Lạ thật. Đang ở Moskva, đột nhiên lại tìm về một vùng heo hút thế này.
– Đúng, đó là ý định của tôi. Tôi đi tìm sự yên tĩnh. Đến một vùng hẻo lánh, chả ai biết tới.
– Đồng chí thử nói xem, Varykino thơ mộng ở chỗ nào? Tôi biết các nơi trong vùng này. Ngày xưa có các nhà máy của Cruyghe. Tình cờ đồng chí có phải là bà con thân thích hay người kế nghiệp của Cruyghe không đấy?
– Tại sao ông lại dùng cái giọng châm biếm ấy? Chuyện “kế nghiệp” thì có dính dáng gì đến đây? Tuy vợ tôi thực sự là…
– Đấy đấy đồng chí thấy chưa. Các vị thương nhớ bọn bạch vệ à? Tôi đành làm cho các vị thất vọng. Các vị đến hơi trễ. Vùng này đã sạch bóng chúng.
– Ông vẫn tiếp tục chế nhạo tôi?
– Và rồi ông là bác sĩ, bác sĩ quân y. Đang là thời chiến. Cái này đúng thuộc trong của tôi. Một kẻ đào ngũ. Bọn Xanh 9 cũng lánh mình trong rừng rú, cũng tìm sự yên ổn. Đủ căn cứ chưa?
– Tôi bị thương hai lần và được giải ngũ như một phế binh.
– Ông sắp chìa ra tờ giấy của Bộ Dân uỷ Giáo dục hoặc Bộ Dân uỷ Y tế giới thiệu ông là “một người Xô viết hoàn toàn”, một người “có cảm tình” và chứng nhận “lòng thành thật” của ông. Thưa ngài đốc- tờ đáng kính, hiện nay trên trái đất đang là ngày phán xét cuối cùng, thời của những sinh vật mang gươm giáo và những con thú, chứ không phải của những vị bác sĩ có cảm tình hoàn toàn và có lòng thành thật đâu. Nhưng thôi, tôi đã bảo ông được tự do, và tôi không nuốt lời đâu. Song chỉ lần này thôi. Tôi dự cảm rằng chúng ta sẽ còn gặp nhau, và lúc ấy sẽ có câu chuyện khác hẳn đấy, mong ông cẩn thận giữ gìn.
Lời đe doạ và thách thức không làm cho Zhivago nao núng. Chàng nói:
– Tôi biết tất cả những gì ông đang nghĩ về tôi. Đứng về phía ông, ông hoàn toàn đúng. Nhưng cuộc tranh luận mà ông muốn kéo tôi vào, và phải nói rằng tôi đã có thời gian để rút ra một kết luận nhất định. Song không thể trình bày vắn tắt điều đó trong vài câu. Xin phép ông được lui ra mà không phải giải thích thêm, nếu quả thực tôi được tự do, còn trái lại thì ông cứ việc xét xử tôi Tôi chả có gì phải biện bạch với ông.
Tiếng chuông điện thoại ngắt lời họ. Liên lạc điện thoại đã được phục hồi, Strelnikov nhấc ống nghe lên, thổi vài lần vào đó:
– Cảm ơn Gurian. Bây giờ đồng chí hãy cử một người tới để đưa đồng chí Zhivago về tàu nhé. Mong rằng đừng để xẩy ra chuyện lộn xộn như thế nữa và làm ơn gọi đến Ban Cheka 10 giao thông ở Razvilie cho tôi.
Còn lại một mình, Strelnikov điện thoại ra nhà ga:
– Người ta vừa giải qua đây một cậu bé, lúc nào nó cũng chỉ đưa tay sửa mũ, trong khi đầu nó bị băng bó, trông chăng ra sao cả. Phải rồi. Lo điều trị cho nó, nếu cần. Phải, hãy giữ gìn như giữ gìn con ngươi của mắt, đồng chí sẽ đích thân chịu trách nhiệm với tôi. Cho nó một suất ăn, nếu cần. Thế nhé. Bây giờ đến công việc. Tôi đang nói đây, tôi nói chưa hết mà. Quái quỷ, bị chập dây rồi. Gurian! Gurian! Người ta cắt ngang mất rồi.
“Có thể đó là một cậu học trò cũ của mình!” Strelnikov nghĩ bụng, trong khi tạm gác ý định kết thúc câu chuyện điện thoại với nhà ga. – “Nó đã lớn và đang làm loạn chống lại chúng ta”. – Strelnikov nhẩm tính những năm dạy học, đánh nhau ở mặt trận và bị giam giữ ở trại tù binh, để xem tổng số có bằng tuổi cậu bé không. Sau đó, qua cửa sổ toa, anh bắt đầu đưa mắt tìm kiếm giữa toàn cảnh hiện rõ phía chân trời cái khu phố Yuratin nằm trên bờ sông, ngay chỗ cửa nơi gia đình anh ừng sống. Lỡ vợ và con gai anh vẫn đang ở đó thì sao? Giá về thăm nhà, ngay bây giờ, ngay phút này. Có gì khó đâu nhưng liệu việc ấy đã nên nghĩ đến chưa? Dẫu sao, đấy là một cuộc đời hoàn toâ khác. Trước tiên phải kết thúc cuộc sống mới này đã, rồi sẽ trở lại cuộc sống dang dở kia. Để dịp khác, phải, một dịp khác Đúng nhưng bao giờ, giờ nhỉ?
1 Giấy bạc của Chính phủ lâm thời do Kerenski cầm đầu (1917). Sau Cách mạng tháng Mười. Kerenski tổ chức bạo loạn chống chính quyền Xô viết, rồi bỏ chạy ra nước ngoài. Song loại giấy bạc mang tên hắn vẫn được lưu hành chính thức thời đó.
2 Trong nguyên văn, anh lính Voroniuc nói bằng thổ ngữ của một vùng của Ucraina, không thuộc nước Nga.
3 Trong chuyện “Con gái viên đại uý”.
4 Trong cuốn “Gia phả” kể chuyện vùng đài nguyên Baskiria.
5 Đơn vị đo lường cũ của Nga, tương đương 16,38 kg.
6 Một tước hiệu chỉ người chỉ huy cao nhất của một đơn vị quân đội thời trước ở Nga.
7 Một loài chim có chiều dài thần gầm 34 cm. Ở châu á, Tây Nam á và Tây Bắc châu Phi.
8 Stepan Radin (1630 – 1671), lãnh tụ cuộc khởi nghĩa nông dân lớn nhất ở nước Nga thế kỷ 17.
9 Những người lánh vào rừng để khỏi bị gọi vào quân đội bạch vệ trong thời kỳ nội chiến.
10 Lực lượng công an đặc biệt thời kỳ 1918- 1922, chống bọn phản cách mạng và bọn phá hoại.