Thời gian dần qua, ngoài trời mưa vẫn rơi không ngớt. Các trực quan rối rít đến nhà bếp Hộ bộ để ăn tối, trong công phòng chỉ còn Hứa Tắc vẫn vùi đầu tóm lược mối quan hệ của các đảng phái trong ngoài triều.
Nàng rời khỏi Trường An nhiều năm, phần lớn là dựa vào các ghi chép để nắm triều cục, nhưng lần này trở về phát giác rất nhiều gương mặt mới toanh, không khỏi có chút lo sợ. Nàng kiên nhẫn chọn lọc từng thông tin cơ bản, rồi mở sổ ghi chép mà Luyện Hội lưu lại.
Hắn viết danh sách rất rõ ràng, người nào cấu kết hoạn quan làm chuyện gì vào lúc nào, xem mà giật mình. Hứa Tắc tính nhẩm qua loa cũng biết đại khái bao nhiêu tiền hàng đã bị đánh cắp từ quốc khố.
Hiện nay hệ thống thu chi tài chính của quốc gia đại khái được chia làm hai, tương ứng theo thứ tự là Độ chi quản lý tàng khố, và nội quan quản lý đại doanh khố.
Cái trước còn gọi là quốc khố, cái sau là nội khố.
Như lời của hộ bộ Thị Lang bất hạnh bị hại kia, quốc khố thuộc về thiên hạ, không phải tài sản riêng của hoàng đế, là dùng cho đất nước, không phải vì để thỏa mãn ham muốn cá nhân đế vương. Mà nội khố thì ngược lại, nội khố thuần túy là kho riêng, dùng để cung cấp cho đế vương, cơ bản không liên quan đến quốc khố.
Nguồn thu của quốc khố và nội khố là từ đâu? Hiện nay nguồn thu của quốc khố là từ lưỡng thuế, mà nguồn thu chính của nội khố là từ của cải được dâng tặng. Hai hệ thống thu chi tài chính hoàn toàn khác nhau, mỗi bên đều có nguồn thu riêng, lẽ ra không có xung đột quá lớn, nhưng trên thực tế, lại tranh lợi với nhau.
Từ rất nhiều năm trước, triều thần vì tranh giành quyền lợi nội khố mà không ngại cải cách chế độ thuế khóa, việc thi hành lưỡng thuế một lần nữa xác định quyền thu chi thuế khóa. Từ đó về sau các loại thuế nông nghiệp phi pháp, cung ứng vật dụng khẩn cấp cho quân đội, chiết khấu y phục, sách giấy, quà cáp biếu xén đều được nhập vào lưỡng thuế. Những thứ này đáng lẽ vốn quy về nguồn thu của nội khố, nay lại bị quốc khố thu hồi.
Nhưng nội khố cũng sẽ chẳng ngồi chờ ăn không khí, vì thế lại làm ra một loạt danh mục mới nhằm vơ vét của cải, tiếp tục đòi tiền.
Cứ lặp đi lặp lại như thế, ngươi tranh ta đoạt, không có hồi kết.
Mâu thuẫn trong ngoài triều tập trung nhất vào quy chế quà biếu dâng tặng này – tài lợi. Từ đầu đến cuối là tranh chấp tài lợi nhưng hai bên đều không thể vỗ ngực nói “Nhìn đi, quyền sở hữu tài sản đều được nắm trong tay ta rồi”, cho dù nhất thời chiếm ưu thế, nhưng lúc nào cũng phải đề phòng.
Tình thế hiện nay đối với Độ chi vô cùng bất lợi, bài văn sách của Hứa Tắc trong chế khoa từng đề cập tới, chủ yếu tập trung quy chế này. Tiền bạc thu vào của quốc gia tương đối cố định, vấn đề luôn xảy ra ở khâu phân phối, lấy danh nghĩa dâng tặng để nộp đều phải đưa vào nội khố, dâng tặng nhiều thì thu nhập quốc khố tất nhiên sẽ giảm bớt.
(Bài văn sách: bài văn trả lời nhà vua về sách lược trị nước)
Ví dụ lợi nhuận của muối, muối do quốc gia độc quyền kinh doanh, có lợi nhuận rất cao, hàng năm Độ chi đều có định mức trưng thu đối với muối, nhưng hàng năm trưng thu không được một nửa, vì sao?
Bởi vì phần lớn thu nhập từ muối được dùng để hối lộ, nên lợi nhuận thực lại thành ảo.
Tiền bạc dâng tặng được thu vào kho, đút lót vào túi hoạn quan và sứ thần, cho nên quốc khố dĩ nhiên sẽ ít đi.
Độ chi hơi bất cẩn một chút sẽ đắc tội toàn thể nha môn. Nếu thông đồng với hoạn quan thì triều thần bất mãn; Giữ vững lập trường tranh đoạt tài lợi thì hoạn quan bất mãn; Trưng thu hơi nhiều, địa phương bất mãn; Quốc khố không dư thừa nên không thể phân phối, biên quân và các nha môn sẽ bất mãn.
Làm việc ở nơi này giống như đi trên bờ vực thẳm, không cẩn thận sẽ bị đạp xuống.
Hứa Tắc cố làm đến khuya mới trở về phường Vụ Bản, tắm rửa qua loa rồi thay quần áo sạch, mới ngủ một canh giờ thì nghe tiếng trống vang lên ngoài phòng. Nàng nhanh chóng rời giường rồi vào triều. Sau khi kết thúc tảo triều liền đứng ăn sáng ở hành lang, một đám trung thị Ngự Sử đi tới đi lui tuần tra, quan sát ai có tướng ăn kém hay thái độ sai sót, bắt được sẽ tố cáo. Hứa Tắc nhét cái bánh vào miệng, vừa mới nuốt xuống thì nội quan vội vàng chạy tới, nói tiểu hoàng đế muốn tìm nàng chơi cờ.
Hứa Tắc khẩn trương cầm hai miếng bánh, đối diện Lại Bộ Thị Lang đang trợn mắt há mồm nhìn chăm chú liền nhanh chóng bỏ vào miệng mình. Trung thị Ngự Sử trông thấy tướng ăn như cường đạo của Hứa Tắc, đang muốn tiến đến khiển trách, Hứa Tắc lập tức thúc giục nội quan rời khỏi đây.
Tiểu hoàng đế tìm nàng chơi cờ, Mã Thừa Nguyên tất nhiên không ở đây, lẽ ra có thể mượn cơ hội này để giáo huấn chút “Đạo lý nhỏ” cho tiểu hoàng đế, nhưng Mã Thừa Nguyên lại bố trí hoạn quan đứng bên cạnh quan sát, giám thị từng lời nói cử chỉ của Hứa Tắc.
Hứa Tắc dứt khoát bàn luận chơi cờ với tiểu hoàng đế. Có điều đánh cờ cũng thể hiện được trình độ, từ phong cách chơi cờ có thể nhận thấy tiểu hoàng đế rất thông minh, tuy nhỏ tuổi nhưng có thể nhìn ra một ít tâm kế và sách lược. Nếu không bị hoạn quan hại chết sớm thì tương lai cũng có thể trở thành minh quân.
Ván cờ vừa chấm dứt, tiểu hoàng đế nâng cằm suy nghĩ nguyên nhân thất bại thì bên ngoài nội quan chợt thông báo:“Hữu quân Thần Sách Dương trung úy đến!”
Tiểu hoàng đế lẩm bẩm một tiếng “Thôi xong”, vội vàng bảo tiểu nội quan:“Ngươi mau kêu Mã thường thị đến đây.”
Tiểu nội quan liền chạy ra ngoài, Hứa Tắc liếc nhìn thị vệ ngoài cửa, thừa dịp hỏi nhỏ:“Dương trung úy lại đây, vì sao bệ hạ phải gọi Mã thường thị đến?”
Tiểu hoàng đế căng thẳng đáp:“Trẫm hơi sợ Dương trung úy, hắn dữ dằn với trẫm lắm. Nhưng quan hệ giữa hắn và Mã thường thị không được tốt, Mã thường thị cũng không dám hung dữ với trẫm.”
Lời này của tiểu hoàng đế thật sự rất vi diệu, Hứa Tắc không nói tiếp, chỉ cúi đầu thu quân cờ.
Dương trung úy hùng hổ tiến vào, đối với tiểu hoàng đế cũng chỉ là vừa chắp tay chào, hắn liếc Hứa Tắc, lại nhìn bàn cờ, quả nhiên hung hăng nói: “Bệ hạ không có việc gì làm ngoài chơi cờ sao? Chẳng lẽ chuyện gì đều phải giao cho Mã thường thị đi làm sao? Cứ tiếp tục như vậy thì khi nào mới có thể trưởng thành, có thể trị quốc chứ?”
Tiểu hoàng đế buồn bực, ngay cả rắm cũng không dám thả, mím môi không nói lời nào, ánh mắt trông mong nhìn ra cửa, chờ Mã Thừa Nguyên tới cứu mình. Hứa Tắc ngồi lì ở đó, nghĩ thầm chỉ cần bọn họ không đuổi nàng đi, nàng sẽ kiên quyết không đi.
Mã Thừa Nguyên khoan thai đến chậm, không chào hỏi Dương trung úy làm khí thế của hắn liền hạ xuống một ít. Nhưng Mã Thừa Nguyên cũng sẽ không ồn ào náo động với hắn, chỉ hỏi:“Dương trung úy có việc gì muốn tấu sao?”
Dương trung úy ưỡn bụng nói:“Quân Hà Bắc quá không ra gì rồi, mới phái đi một giám quân lại bị giết, không dẹp yên Hà Bắc quả thực khó tiêu mối hận trong lòng. Huống chi các trấn ở Hà Nam không có quan hệ mật thiết với quân Hà Bắc. Cứ như vậy thì mấy trấn ở Hà Nam sẽ bị nuốt hết, bệ hạ hãy mau cấp tiền để đánh chúng đi.”
(Giám quân: giám quân thời Đường thông thường đều là hoạn quan, được phái tới các địa phương như châu, phiên trấn. Người đứng sau bọn họ là quân Thần Sách. Giám quân phụ trách báo cáo tình hình quân đội cho trung ương. Vì thế nếu quân đội địa phương rối loạn, người đầu tiên bị giết chính là giám quân.)
“Tiên đế để lại nội khố gần như trống rỗng rồi, quân phí lại là cái động không đáy, cho nên –” Mã Thừa Nguyên nói xong nhìn về Hứa Tắc,“Nội khố không có tiền đâu.”
Hứa Tắc giả ngu không để ý, Dương trung úy liếc nhìn nàng:“Ngươi mới nhậm chức Hộ bộ thị lang đúng không? Quốc khố có tiền không? Có tiền thì mau cấp ra đi.”
“A?” Hứa Tắc ra vẻ cả kinh, vẫn ngồi quỳ, đáp:“Hạ quan vừa mới đảm nhiệm, vẫn chưa rõ ràng lắm……”
“Đám lão quỷ tử bào thật đúng là không có người nào dùng được.” Dương trung úy bụng dạ thẳng thắn, tuy là hoạn quan nhưng nói chuyện cũng không âm dương quái khí chút nào, cuối cùng hắn bực bội nói tiếp:“Ta mặc kệ, dù sao nhất định phải đánh Hà Bắc, bằng không Hà Nam sẽ bị nuốt trọn, đường vận chuyển ở Giang Hoài sẽ bị chặt đứt, nó vừa đứt thì chúng ta ăn không khí hết. Tả quân Thần Sách không muốn hành động, vậy thì để chúng ta làm, cho nên xin hãy cấp quân phí đúng chỗ, cứ vậy đi.”
Dương trung úy vênh váo dứt lời, rồi nói với tiểu hoàng đế:“Bệ hạ hãy siêng đọc sách, đừng mãi chơi cờ cả ngày, thần đi đây.” Nói xong cũng không quay đầu, bước ra cửa điện, lưu lại tiểu hoàng đế ngơ ngác và Mã Thừa Nguyên nãy giờ vẫn im lặng, còn có Hứa Tắc ôm một bụng ý đồ xấu.
Hứa Tắc bèn đứng dậy, thi lễ với tiểu hoàng đế:“Thần còn có công việc, hôm nay chơi cờ đến đây thôi, xin bệ hạ cho thần cáo lui.”
Mặc dù tiểu hoàng đế luyến tiếc đối thủ lương sư này, còn đang phân vân, nhưng nhìn thấy sắc mặt không kiên nhẫn của Mã Thừa Nguyên, đành ngoan ngoãn nói với Hứa Tắc:“Được, Hứa ái khanh đi thong thả.”
Hứa Tắc ra cửa, bên ngoài đã không còn cảnh tượng mưa gió mịt mù như hôm qua nữa, ánh nắng chói chang đến mức người ta không mở mắt nổi.
Nàng có thể thấy bóng lưng càng lúc càng xa của Dương trung úy, cuối cùng hắn rẽ vào khúc cua, rồi biến mất trong tầm mắt.
Hứa Tắc bước xuống bậc thềm bằng bạch ngọc, mau chóng trở về công giải Độ chi, đi thẳng đến công phòng, mở sổ ghi chép của Luyện Hội, lấy bút kiên nhẫn tiến hành ghi xóa. Nàng lật lật, viết viết xóa xóa từng tờ một đến tận giờ cơm trưa, các quan lại ở Độ Chi đều tới phòng bếp ăn cơm, còn nàng mang theo sổ ghi chép đi đến Ngự sử đài.
Giờ cơm chính, đa số quan lớn nhỏ của Ngự sử đài đều đi dùng cơm, Luyện Hội bước ra cửa thì đụng phải Hứa Tắc.
Luyện Hội dường như không muốn để người khác biết Hứa Tắc phối hợp hắn tra xét vụ án của Độ chi, hắn thấp giọng: “Đến nơi khác nói chuyện đi.”
Hứa Tắc theo hắn đến miếu thổ địa ở ngõ Hàm Quang, ngày thường ở đó hầu như không có người. Mùa hè nóng bức lại càng không có ai thèm chạy đến đó để hưởng cái nắng như thiêu như đốt này, cho nên đây đúng là một nơi tốt để mật đàm.
“Vu án lần này ngươi không cần ra mặt, nhìn bề ngoài chỉ là ngươi bất đắc dĩ phải phối hợp với Ngự sử đài tra án thôi.” Luyện Hội làm sáng tỏ quan hệ lợi hại trong đó,“Ngươi mới nhậm chức Hộ bộ thị lang, không cần thiết phải đối nghịch bọn họ quá sớm. Lá cờ đầu này cứ giao cho Ngự sử đài là tốt rồi.”
Thay vì nói là bảo hộ Hứa Tắc, không bằng nói là phe triều thần muốn bảo vệ lực lượng tranh đấu.
Hứa Tắc đương nhiên hiểu được, lúc này nàng đang xem chừng tình thế, cũng không muốn cứng đối cứng với hoạn quan, đây cũng là nguyên nhân vì sao nàng lựa chọn chịu đựng nhục nhã.
Hứa Tắc gật đầu, Luyện Hội lại hỏi:“Đọc sổ ghi chép, ngươi có ý kiến gì không?”
“Ta không tán thành kế hoạch tận diệt của ngươi.”
Luyện Hội nhướng mày. Hứa Tắc lấy sổ ghi chép trong tay áo, đưa cho hắn:“Trước tiên chúng ta chỉ có thể ăn một bên thôi.”
Luyện Hội mở sổ ghi chép, phía trên đã bị nàng bôi xóa hết, vừa xem liền xác nhận dựa theo hiểu biết của nàng đối với những người này để phân chia phe cánh, mà nàng chỉ nhằm vào một kẻ trong đó để hạ thủ.
Hoạn quan cũng có phe phái cũng có nội đấu, quân Thần Sách cũng chia thành hai cánh tả hữu, cho nên ít nhất duy trì hai phái. Hai phái này có lẽ sẽ hợp tác với thế lực khác khi đối mặt với triều thần, nhưng ngày thường sẽ cùng kiềm chế và tranh đoạt lẫn nhau.
Rất rõ ràng, Dương trung úy đứng đầu hữu quân Thần Sách, Trần Mẫn Chí và Mã Thừa Nguyên đứng đầu tả quân Thần Sách, mỗi người có tâm tư riêng, mỗi phe cánh cũng thế.
Muốn động thủ với hoạn quan, không nhất định phải đắc tội hai phe, trước tiên có thể động thủ với một bên, và cho bên kia tạm thời được lợi.
Nàng tin rằng Dương trung úy nhất định vui vẻ mà đề nghị Mã Thừa Nguyên, Trần Mẫn Chí bỏ tiền túi để cung cấp quân phí cho hữu quân Thần Sách của hắn.
Đấu tranh quyền lực sáng suốt chính là không phải tỏ rõ lập trường lúc nào cũng gây thù chuốc oán, mà là sử dụng lực lượng như thế nào.