Hẳn bạn sẽ nghĩ một ngày như thế sẽ khởi đầu trong run rẩy…
***
Chiếc Mustang của Clarice Starling nảy lên trên đoạn dốc vào Cục Rượu bia, Thuốc lá và Vũ khí (BATF) trên đường Massachusetts, một sở chỉ huy thuê của Đức Cha Sun Myung Moon vì lợi ích kinh tế.
Lực lượng xung kích đang chờ đợi trên ba chiếc xe, một chiếc xe tải ngụy trang méo mó dẫn đầu, theo sau là hai chiếc xe tải đen của đội đặc vụ. Họ đang thực thi nhiệm vụ, và giờ là lúc phải phục kích trong ga ra trống huếch trống hoác.
Starling lôi túi đồ nghề khỏi xe rồi chạy đến chiếc xe dẫn đầu hai bên có căng áp phích màu trắng lấm lem với dòng chữ TIỆM CỦA MARCELL.
Từ cánh cửa sau để mở của xe tải, bốn người đàn ông đang quan sát Starling tiến đến. Dáng vẻ mảnh mai đầy mệt mỏi, cô vẫn di chuyển thật nhanh dù đang lặc lè đồ đạc, mái tóc sáng lên trong ánh huỳnh quang rờn rợn.
“Đúng là phụ nữ. Lúc nào cũng tới trễ,” một viên cảnh sát thủ đô nói. Đặc vụ John Brigham của BATF đang ở vị trí chỉ huy.
“Không phải cô ấy trễ đâu. Xe thắng lại tôi mới nhắn cho cô ấy,” Brigham nói. “Hẳn cô ấy đã tức tốc từ Quantico đến đây. Này, Starling, đưa cái túi cho tôi.”
“Chào, John.” Cô đập tay với anh.
Brigham bàn bạc với viên cảnh sát ngồi ghế tài xế ngụy trang luộm thuộm. Cửa sau còn chưa kịp khép, chiếc xe tải đã lăn bánh, hòa vào không khí chiều thu dễ chịu bên ngoài.
Clarice Starling, vốn đã quá quen với những xe tải theo dõi, đằm mình dưới chiếc kính tiềm vọng và lùi về phía sau, sát bên khối nước đá khô nặng hơn sáu mươi cân vẫn dùng làm điều hòa nhiệt độ khi xe phải tắt máy để ẩn nấp.
Chiếc xe tải cũ kỹ ngai ngái mùi sợ hãi và mồ hôi không thể nào tẩy sạch. Trước nay nó đã từng được dán cơ man nào là nhãn mác. Bảng hiệu dơ dáy bạc màu trên cửa mới được dán ba mươi phút trước. Những lỗ đạn được trám lại bằng Bond-O thì lâu hơn.
Cửa sổ sau xe đều là gương một chiều xỉn màu vừa phải. Starling có thể quan sát hai chiếc xe to đen của đội đặc vụ theo sau. Cô hy vọng họ sẽ không phải kẹt ở trong xe hàng giờ đồng hồ.
Mỗi khi cô quay ra cửa sổ, các nam sĩ quan lại nhìn cô dò xét.
Đặc vụ FBI Clarice Starling, ba mươi hai tuổi, trông lúc nào cũng trẻ đúng tuổi và xinh đẹp ngay cả những lúc mệt mỏi.
Brigham lấy lại tập hồ sơ từ ghế trước.
“Sao lúc nào cô cũng bắt trúng mấy vụ tào lao này vậy Starling?” anh hỏi và mỉm cười.
“Vì anh cứ kêu đến tôi,” cô đáp.
“Vụ này thì tôi cần đến cô. Nhưng lạy Chúa, tôi thấy cô vẫn hay thực hiện các vụ bắt giữ khẩn cấp. Không cần hỏi tôi cũng đoán được rằng có ai đó ở Điểm Diều Hâu căm ghét cô. Cô nên sang làm việc cho tôi. Đây là nhân viên của tôi, đặc vụ Marquez Burke và John Hare, còn đây là sĩ quan Bolton của Sở Cảnh sát Thủ đô.”
Một đội đột kích liên minh giữa Cục Rượu bia, Thuốc lá và Vũ khí và Cục Phòng chống Ma túy (DEA) cùng với FBI là một đội hình gượng ép trong thời buổi kinh phí hạn hẹp này, khi mà ngay cả Học viện FBI cũng phải đóng cửa vì thiếu ngân sách hoạt động.
Trông Burke và Hare đúng là giống đặc vụ. Còn viên cảnh sát thủ đô thì nhìn như một anh mõ tòa. Anh ta trạc độ bốn lăm, béo ục và bốc mùi chua lòm.
Sau lần bị kết án dính líu đến ma túy, Thị trưởng Washington nóng lòng tỏ ra rắn tay với chất nghiện này, ông khăng khăng rằng cảnh sát thủ đô phải được chia sẻ công lao trong những vụ đột kích lớn ở thành phố Washington. Thế nên Bolton mới có mặt ở đây.
“Hôm nay bọn Drumgo sẽ nấu hàng,” Brigham lên tiếng. “Evelda Drumgo, biết ngay mà,” Starling nói không mấy hồ hởi.
Brigham gật đầu. “Ả ta mở một xưởng ‘đá’ trên sông bên cạnh chợ cá Feliciana. Người của ta cho biết hôm nay ả sẽ nấu một mẻ ‘đá’. Và ả đã đặt sẵn vé đi đảo Grand Cayman ngay tối nay. Chúng ta không thể chần chừ được nữa.”
Crystal methamphetamine, tiếng lóng là “đá”, tạo một cơn phê ngắn nhưng siêu mạnh và gây nghiện khủng khiếp.
“Ma túy là việc của DEA nhưng chúng ta cần Evelda trong vụ vận chuyển vũ khí hạng ba liên bang. Lệnh bắt ghi chi tiết một số súng máy Beretta và vài khẩu MAC 10, mà ả biết rõ phần lớn số còn lại ở đâu. Starling, tôi muốn cô tập trung vào Evelda. Cô đã từng giáp mặt với ả rồi. Mấy người này sẽ hỗ trợ cho cô.”
“Một nhiệm vụ dễ dàng,” sĩ quan Bolton nói với vẻ hài lòng. “Starling, tôi nghĩ cô nên kể cho họ nghe về Evelda,” Brigham nói.
Starling chờ cho chiếc xe lắc rầm rập qua đường ray xe lửa. “Evelda sẽ đánh trả,” cô nói. “Nhìn bề ngoài thì không có vẻ gì là như thế, vì ả từng là người mẫu mà. Nhưng ả sẽ đánh trả. Ả là góa phụ của Dijon Drumgo. Tôi đã từng bắt ả hai lần vì tội tổ chức bảo kê, lần đầu tiên là cùng với Dijon.
Lần gần đây nhất ả mang một khẩu chín ly với ba băng đạn và chai xịt hơi cay trong túi xách. Ả còn có một con dao gấp nhét bên trong áo ngực. Không biết lần này ả sẽ mang những gì.
Lần đó, tôi nhã nhặn yêu cầu ả đầu hàng và ả làm theo. Sau đó trong trại tạm giam thủ đô ả đã dùng cán muỗng giết một tù nhân tên Marsha Valentine. Cho nên chả biết được đâu… vẻ mặt ả khó đoán lắm. Và đại bồi thẩm đoàn đã phán là ả giết người vì tự vệ.
Ả đã thoát được tội bảo kê và xin giảm án còn lại. Tội buôn vũ khí cũng được miễn bởi ả có con nhỏ và chồng vừa chết trong vụ đọ súng ở đường Pleasant, có thể do bọn Spliffs gây ra.
Tôi sẽ kêu ả đầu hàng. Hy vọng là ả sẽ nghe theo – chúng ta phải diễn một màn. Nhưng hãy nghe tôi, nếu chúng ta phải khống chế Evelda Drumgo thì tôi cần trợ giúp thật sự. Không cần yểm trợ cho tôi, tôi muốn khống chế ả. Song các anh đừng tưởng là sẽ được xem tôi và Evelda đấu vật.”
Đã có thời Starling chắc chắn sẽ nhượng bộ những người này. Lúc này họ không hứng thú với những gì cô đang nói và cô cũng đã bị đối xử như thế mãi rồi nên chẳng buồn để tâm.
“Evelda Drumgo liên hệ với băng Trey-Eight thông qua Dijon,” Brigham nói. “Theo người của ta thì ả có một băng nhóm tên là Crip và chúng tản mát trên bờ biển. Mục đích chính của băng này là để đề phòng bọn Spliffs. Tôi không biết chúng sẽ phản ứng thế nào một khi trông thấy chúng ta. Nếu có thể, chúng sẽ không bao giờ giáp mặt cảnh sát.”
“Các anh nên biết rằng Evelda bị nhiễm HIV,” Starling nói. “Ả lây từ Dijon qua đường kim tiêm. Biết được việc này lúc ở trong trại giam, ả đã phát rồ lên. Chính vì thế hôm đó ả đã giết Marsha Valentine rồi đánh nhau với cai ngục. Nếu ả đánh nhau mà không có vũ khí, các anh nên chuẩn bị tinh thần bị dính phải bất cứ chất lỏng nào ả phun ra. Ả sẽ nhổ nước bọt và cắn các anh. Còn nếu các anh tìm cách vật ả xuống, thể nào ả cũng tiểu và ị lên người các anh. Cho nên cần thiết phải đeo găng tay và mặt nạ. Nếu các anh dúi ả vào trong xe cảnh sát, khi đặt tay lên đầu ả nhớ coi chừng kim tiêm trong tóc ả và nhớ trói chân ả lại.”
Mặt Burke và Hare dài thuỗn ra. Sĩ quan Bolton ra vẻ không thích lắm. Anh ta hướng cái cằm xệ về phía vũ khí của Starling, một khẩu Colt .45 kiểu Government* với miếng dán dùng cho ván trượt trên báng, nằm trong bao súng Yaqui bên thắt lưng phải của cô. “Lúc nào cô cũng đi lại với cái thứ đã lên nòng kia à?” anh thắc mắc.
“Lên nòng và khóa vào bất cứ phút nào trong ngày,” Starling đáp. “Thật nguy hiểm,” Bolton nói.
“Vào bãi tập bắn rồi tôi sẽ giải thích với anh.”
Brigham cắt ngang. “Bolton, tôi từng huấn luyện Starling, cô ấy đã vô địch đấu súng lục liên ngành ba năm liền đấy. Không phải lo lắng về vũ khí của cô ấy đâu. Mấy gã ở Đội Giải cứu Con tin, Cao bồi Velcro đã gọi cô là gì ấy nhỉ Starling, sau lần cô hạ gục họ ấy? Annie Oakley* à?”
“Oakley Độc Địa,” cô đáp và nhìn ra cửa sổ.
Starling cảm thấy nhức nhối và cô đơn trong chiếc xe theo dõi đầy mùi dê chứa toàn đàn ông này. Đàn ông, rượu, hương liệu cũ, mồ hôi và da thuộc. Cô cảm thấy một nỗi sợ hãi mơ hồ, như là có một đồng xu vướng bên dưới lưỡi. Một hình ảnh hiện lên trong đầu: bố cô, sặc mùi thuốc lá và sực nức xà bông, gọt một quả cam bằng con dao bỏ túi có mũi gãy thành mũi vuông, rồi bổ cam cho cô trong gian bếp. Đèn chiếu hậu chiếc xe chở hàng của ông đã biến mất khi ông ra đi vào cái đêm tuần tra – cái đêm đã cướp đi mạng sống của ông. Quần áo của ông trong tủ áo. Chiếc áo sơ mi vũ hội của ông. Một vài thứ đồ xinh xinh trong tủ áo của cô mà cô chưa mặc lần nào. Đồ tang treo trên móc áo, như những đồ chơi trên gác xép.
“Khoảng mười phút nữa,” tài xế nói vọng ra sau.
Brigham nhìn ra kính chắn gió rồi kiểm tra đồng hồ đeo tay. “Sơ đồ đây,” anh nói. Anh có một sơ đồ thô được vẽ vội bằng bút dạ và một bản vẽ mờ mờ được fax đến từ Sở Xây dựng. “Khu chợ cá nằm trong dãy cửa hàng và nhà kho dọc bờ sông. Đầu đường Parcell giao với con lộ Riverside trong khu nhà nhỏ này ở ngay trước chợ cá.
Thấy không, tòa nhà có cái chợ cá trên mặt nước ấy. Dọc theo mặt sau của tòa nhà là một bến tàu, ngay chỗ này đây. Cạnh chợ cá ở tầng trệt là phòng pha chế của Evelda. Lối vào ở phía trước, ngay chỗ này đây, sát mái hiên của chợ cá. Trong khi chế thuốc, Evelda sẽ chốt người canh chừng bên ngoài, ít nhất là trong vòng ba dãy nhà xung quanh. Đã có lần chúng báo động kịp thời cho ả ta phi tang mọi thứ xuống bồn cầu. Vì thế, đội đột kích của DEA ở xe thứ ba sẽ đột nhập vào từ một chiếc tàu câu cá trên bến tàu vào đúng mười lăm giờ. Bằng chiếc xe tải này chúng ta có thể tiếp cận gần nhất, ngay tận cửa phòng pha chế, chỉ trước cuộc đột kích có ít phút thôi. Nếu Evelda chạy ra phía trước, chúng ta sẽ tóm ả. Nếu ả trốn bên trong, chúng ta sẽ tấn công vào cửa hông ngay sau khi họ tấn công mé bên kia. Xe thứ hai yểm trợ cho chúng ta có bảy người; bọn họ sẽ đến vào đúng mười lăm giờ trừ phi chúng ta gọi họ sớm hơn.” “Làm sao chúng ta phá cửa được?” Starling nói.
Burke lên tiếng. “Nếu không nghe thấy gì thì tức là ta tông cửa. Nếu có tiếng nổ lớn hay tiếng súng thì nghĩa là ‘tiếng gọi Avon’.” Burke vỗ vỗ khẩu súng lục của mình.
Starling đã từng thấy thứ này – “tiếng gọi Avon” là một kiểu vỏ đạn súng ngắn chứa đầy thuốc nổ có thể làm nổ tung ổ khóa mà không gây tổn thương tới người ở bên trong.
“Mấy đứa con của Evelda đang ở đâu vậy?” Starling nói.
“Theo người nằm vùng của chúng ta thì ả gửi chúng ở nhà trẻ,” Brigham nói. “Người nằm vùng của chúng ta rất tường tận về hoàn cảnh gia đình ả, giống như là các anh tường tận về tình dục an toàn vậy.”
Điện đàm của Brigham bíp lên trong tai nghe của anh, anh bèn dò xét khoảng trời bên ngoài thấy được qua cửa sổ sau. “Có lẽ nó chỉ đi ngang qua.” Anh nói vào micrô. Anh gọi tài xế. “Đội hai thấy một chiếc trực thăng tin tức một phút trước. Anh có thấy gì không?”
“Không.”
“Tốt hơn hết là nó chỉ đi ngang qua. Chuẩn bị lên đường nào.”
Một trăm năm mươi cân đá khô không thể làm mát năm con người trong thùng xe tải kim loại vào một ngày nóng bức, nhất là khi họ đang mang giáp bảo hộ trên người. Khi Bolton giơ cánh tay lên, anh ta đã chứng tỏ rằng xịt thuốc khử mùi không thể bì với tắm được.
Clarice Starling đã may miếng lót vai vào bên trong chiếc áo sơ mi rộng của mình để đỡ sức nặng của bộ giáp Kevlar, mong rằng sẽ chống được đạn. Bộ giáp càng nặng thêm vì một lớp gốm ở cả sau lẫn trước.
Những kinh nghiệm đau lòng đã cho thấy giá trị của lớp gốm sau lưng. Tham gia đột kích với một đội hình chưa quen biết gồm những thành viên có trình độ khác nhau là một việc nguy hiểm. Đạn bắn từ phe ta có thể chọc vỡ xương sống nếu anh đi vào trước một đám người sợ hãi thiếu kinh nghiệm.
Cách con sông hai dặm, chiếc xe tải thứ ba thả đội đột kích của DEA xuống điểm hẹn cùng với chiếc thuyền câu cá. Xe yểm trợ dừng cách chiếc xe ngụy trang màu trắng một khoảng kín đáo.
Khu phố càng lúc càng nhếch nhác. Một phần ba các tòa nhà bị quây kín bằng ván, và đám xe hỏng nằm trên những thùng hàng cạnh vỉa hè. Đám thanh niên lảng vảng ở góc đường trước mấy quán bar và những khu chợ nhỏ. Mấy đứa trẻ chơi xung quanh một tấm nệm nóng hầm hập ở lề đường.
Nếu những tên cảnh giới của Evelda đang ở ngoài thì chúng hẳn đang ẩn nấp kỹ trong đám người trên hè phố. Quanh những quầy bán rượu và bãi đậu xe của cửa hàng tạp phẩm, người ta ngồi trên xe tán chuyện.
Một chiếc Impala mui trần gầm thấp chở bốn gã choai người Mỹ gốc Phi hòa vào dòng xe thưa thớt và theo sát đuôi chiếc xe tải. Bọn chúng cứ mặc xe nảy lên xóc xuống trên lề đường để dọa bọn con gái đi ngang qua. Tiếng nhạc phát ra từ chiếc xe dội inh ỏi vào những phiến kim loại trong xe tải.
Quan sát qua lớp kính một chiều ở cửa sổ sau, Starling nhận thấy mấy gã choai trên chiếc mui trần không phải là mối đe dọa. Bọn Crip lúc nào cũng đi một chiếc mui kín hùng hổ hoặc xe tải con cũ kỹ để hòa nhập vào khu vực này và cửa sổ sau xe lúc nào cũng kéo kín. Xe của bọn chúng sẽ chở một đoàn ba tên, đôi khi bốn tên. Nếu bạn lúc nào cũng đa nghi thì ngay cả một đội bóng rổ ngồi trong một chiếc Buick trông cũng có vẻ tiềm ẩn tai họa.
Khi họ đang đợi ở một giao lộ, Brigham mở nắp đậy của chiếc kính tiềm vọng rồi vỗ vào đầu gối Bolton.
“Nhìn quanh xem có ai đáng chú ý trên lề đường không,” Brigham nói. Ống kính tiềm vọng được giấu trong chỗ thông gió trên nóc xe. Nó chỉ
nhìn được hai bên.
Bolton xoay đúng một vòng rồi dừng lại, dụi dụi mắt. “Động cơ chạy làm mọi thứ rung quá cỡ,” anh ta nói.
Qua điện đàm, Brigham kiểm tra lại với toán trên tàu. “Bốn trăm mét xuôi dòng và đang đến gần,” anh lặp lại với đội của mình trong xe tải.
Chiếc xe tải phải dừng lại một lúc tưởng như dài đằng đẵng vì đèn đỏ khi còn cách đường Parcell một lô nhà và đối mặt với chợ cá. Người tài xế quay sang vờ như kiểm tra kính chiếu hậu bên phải và kín đáo nói với Brigham. “Xem ra không có nhiều người mua cá lắm. Đi nào.”
Đèn bật xanh vào lúc hai giờ năm mươi bảy phút chiều, đúng ba phút trước giờ hẹn, chiếc xe tải theo dõi rách nát dừng trước chợ cá Feliciana ở một vị trí thuận lợi ngay bên vệ đường.
Trong khoang sau, mọi người nghe tiếng bánh xe rít lên khi tài xế thắng phanh tay lại.
Brigham trả lại kính tiềm vọng cho Starling. “Xem xem.”
Starling quét chiếc kính tiềm vọng qua mặt trước tòa nhà. Nhiều quầy hàng và ngăn chứa cá lót đá lạnh ở dưới lấp lánh sau một mái hiên bằng vải bạt trên lề đường. Cá hồng đánh từ bờ sông Carolina được bày khéo léo giữa những đống đá bào. Lũ cua khua khoắng càng trong những chiếc sọt bật nắp và tôm hùm trèo lên nhau trong một cái thùng. Người bán cá khôn ngoan đặt miếng giữ ẩm lên mắt những con cá lớn hơn để giữ cho mắt chúng vẫn trong cho tới lúc các bà nội trợ sành sỏi sinh ra ở vùng Caribê đến săm soi vào buổi tối.
Ánh mặt trời chiếu xuống tia nước trên bàn rửa cá bên ngoài tạo thành một dải cầu vồng, cạnh bàn một người đàn ông có vẻ gốc Nam Mỹ với hai cẳng tay vạm vỡ đang khéo léo dùng con dao cong chặt một con cá mập xanh, đoạn xối con cá to dưới cái vòi xịt mạnh. Cả nước lẫn máu chảy xuống rãnh và Starling còn nghe thấy nó chảy cả xuống gầm xe tải.
Starling nhìn người tài xế đang hỏi chuyện người bán cá. Người bán cá xem đồng hồ, nhún vai, rồi chỉ một quán ăn trưa địa phương. Người tài xế vào chợ ngó nghiêng một chút, châm một điếu thuốc rồi đi về phía quán ăn.
Một chiếc máy hát trong chợ đang chơi bản La Macarena đủ lớn để Starling dù ngồi trong xe tải vẫn nghe rõ mồn một. Cô tự nhủ mình không thể chịu đựng cái bản nhạc này một lần nào nữa.
Cái cửa cần theo dõi nằm ở bên phải. Đó là hai cánh cửa kim loại được lắp vào khung cũng bằng kim loại với duy nhất một bậc xi măng.
Starling định rời kính tiềm vọng thì cửa mở ra. Một gã da trắng to lớn mặc áo chim cò và mang xăng đan bước ra. Gã có một cái túi da đeo chéo qua ngực, một tay để ở đằng sau túi. Một tên da đen trông dẻo dai, cầm áo mưa đi phía sau gã.
“Chú ý,” Starling nói.
Với chiếc cổ dài và gương mặt đẹp như hoàng hậu Ai Cập Nefertiti, Evelda Drumgo lấp ló sau vai hai gã đàn ông.
“Evelda đang đi ra sau hai gã kia, trông như chúng đang che cho ả,” Starling nói.
Chưa kịp bỏ kính tiềm vọng xuống, Starling đã đụng phải Brigham. Cô đội mũ bảo hộ lên.
Brigham nói vào điện đàm. “Bước một, tất cả các đội. Hành động. Hành động. Ả từ phía này đi ra rồi. Chúng tôi đang hành động.”
“Khống chế chúng càng êm càng tốt,” Brigham nói. Anh lên đạn khẩu súng chống bạo động. “Thuyền sẽ tới trong vòng ba mươi giây, đi thôi.”
Starling ra ngoài đầu tiên, bím tóc của Evelda tung ra khi ả quay ngoắt lại phía cô. Starling thấy hai gã cạnh ả móc súng ra và hét lên “Nằm xuống, nằm xuống!”
Evelda từ giữa hai gã đàn ông bước ra.
Ả đang dịu một đứa bé trong cái dịu đeo trên cổ.
“Đợi chút, đợi chút, tôi không muốn rắc rối,” ả nói với hai gã bên cạnh. “Đợi chút, đợi chút.” Ả bước tới như một bà hoàng, nâng đứa bé lên trước mặt trong tầm kéo căng của cái địu, một cái mền rũ xuống.
Chừa cho ả một lối thoát. Starling cất súng vào bao, dang hai tay, lòng bàn tay xòe ra. “Evelda! Đầu hàng đi. Đến đây với tôi nào.” Đằng sau Starling, tiếng động cơ V8 và tiếng bánh xe rít lên. Cô không thể quay lại. Cầu trời đó là nhóm yểm trợ.
Phớt lờ cô, Evelda tiến về phía Brigham, chiếc mền em bé tung lên khi khẩu MAC 10 nổ đằng sau nó và Brigham ngã xuống, tấm kính bảo hộ mặt đầy máu.
Gã da trắng to xác thả túi xuống. Nhìn thấy khẩu súng máy của gã, Burke liền nâng súng bắn ra một đám bụi chì vô hại từ băng đạn Avon. Anh ta lên đạn nhưng không kịp. Gã kia đã xả một tràng đạn xuyên qua phần bẹn ngay dưới áo chống đạn của Burke, rồi chĩa súng về phía Starling, cô chạy lên bắn hai phát vào giữa chiếc áo chim cò của gã trước khi gã kịp bóp cò.
Có tiếng súng đằng sau Starling. Gã da đen dẻo dai thả cái áo mưa che vũ khí xuống và nấp lại vào tòa nhà, vừa lúc một đòn thúc tựa như cú đấm mạnh vào lưng xô Starling về phía trước khiến cô kêu hự một tiếng. Quay lại, cô thấy chiếc xe chiến đấu của băng Crip chình ình trên đường. Đó là một chiếc Cadillac mui kín, cửa sổ mở. Hai tay súng giống dân da đỏ Cheyenne ngồi ở bệ cửa sổ phía xa mà bắn qua nóc xe; tên thứ ba bắn từ băng ghế sau. Khói lửa bốc lên từ ba họng súng lẫn những viên đạn đoàng đoàng xung quanh cô.
Starling nấp giữa hai chiếc xe đang đậu và nhìn thấy Burke co giật trên đường. Brigham nằm bất động, một vũng máu chảy ra từ nón bảo hộ của anh. Hare và Bolton bắn từ giữa những chiếc xe đâu đó bên kia đường, đằng xa kính xe vỡ tan rơi loảng xoảng xuống đường cùng tiếng bánh xe nổ bụp khi súng tự động từ chiếc xe Cadillac nhả tới. Starling, một chân vục trong rãnh nước đang chảy, ló đầu ra để nhìn.
Hai tay súng ngồi lên cửa sổ bắn qua trần xe còn gã tài xế xả đạn bằng một khẩu súng ngắn trong tay còn rảnh. Kẻ thứ tư ngồi ở ghế sau mở tung cửa, kéo Evelda và đứa bé vào. Ả mang theo cái túi. Chúng đang bắn vào Bolton và Hare ở bên kia đường, khói tuôn ra từ bánh sau của chiếc Cadillac và xe bắt đầu lăn bánh. Starling đứng dậy lao theo bắn vào một bên đầu tên tài xế. Cô bắn hai phát vào tay súng ngồi ở cửa sổ trước làm hắn bật ngửa ra. Không rời mắt khỏi chiếc xe, cô tháo báng đạn khỏi khẩu .45 và lắp xong băng khác khi băng đạn rỗng còn chưa chạm đất.
Chiếc Cadillac va vào một hàng xe bên kia đường rồi dừng phắt lại. Starling bước đến gần chiếc Cadillac. Một tay súng vẫn còn ngồi ở cửa
sổ sau, đôi mắt đờ dại đi còn hai tay đang ra sức đẩy trần xe lên. Ngực hắn bị ép giữa chiếc Cadillac và một chiếc xe đang đậu. Súng của hắn bị trượt khỏi trần xe. Một đôi tay trống không xuất hiện gần cửa sổ sau. Một gã đàn ông đội chiếc khăn rằn xanh lam nhảy từ trong xe ra, giơ tay lên chạy biến đi. Starling bỏ qua hắn.
Súng nổ bên phải cô và kẻ đang chạy kia nhào tới phía trước, trượt sấp rồi cố bò vào gầm một chiếc xe. Trực thăng vỗ cánh phần phật trên đầu cô.
Từ bên trong chợ cá có ai đó la lên. “Nằm xuống. Nằm xuống.” Mọi người liền sụp xuống sau quầy, thế là nước từ bàn rửa cá bỏ trống xịt tung lên trời.
Starling tiến đến chiếc Cadillac. Có tiếng động đằng sau xe. Chiếc Cadillac chuyển động. Cả chiếc xe rung lên. Đứa trẻ hét lên trong xe. Tiếng súng vang lên và cửa sổ sau vỡ ra rớt vào trong.
Starling giơ tay hét lên mà không hề ngoái đầu lại. “DỪNG LẠI. Đừng bắn. Coi chừng cánh cửa. Đằng sau tôi. Coi chừng cánh cửa chợ cá.”
“Evelda.” Có tiếng động ở phía đuôi xe. Đứa trẻ hét lên bên trong. “Evelda, đưa tay ra ngoài cửa sổ đi.”
Evelda Drumgo đang bước ra. Đứa trẻ vẫn khóc ré lên. Bản La Macarena nện oàng oàng vào những cái loa bên trong chợ cá. Bước ra đến ngoài, Evelda, đầu cúi thấp, tiến về phía Starling, hai tay ôm lấy đứa bé.
Burke giãy giụa trên khoảng đường giữa hai người. Những cơn co giật ít dần và máu bắt đầu chảy ra. Bản La Macarena cũng giật đùng đùng cùng với Burke. Có ai đó lom khom chạy vội về phía anh, nằm xuống bên cạnh và ấn gạc lên vết thương.
Starling chĩa súng xuống đất trước mặt Evelda. “Evelda, đưa tay ra, nào, đưa tay ra cho tôi.”
Có gì đó nhô lên trong chăn. Evelda với đôi bím tóc và cặp mắt Ai Cập sẫm màu ngước đầu lên nhìn Starling.
“Ra là cô, Starling,” ả nói.
“Evelda, đừng làm thế. Hãy nghĩ cho đứa bé.” “Hãy đổi máu đi, con điếm.”
Cái chăn tung lên và một tiếng đùng vang lên trong không trung. Starling bắn xuyên qua môi trên Evelda Drumgo khiến ót ả nổ tung.
Starling cố ngồi xuống, thở hắt ra bởi một bên thái dương có cảm giác đau nhói khủng khiếp. Evelda cũng đổ gập người xuống mặt đường, máu từ miệng ả tuôn hết lên đứa bé, tiếng khóc của đứa bé nghẹn lại bên cạnh xác ả. Starling bò lại gần, giật cái khóa bấm trơn tuột của túi địu xuống. Cô kéo phăng con dao gấp ra khỏi áo ngực của Evelda, mở lên mà không kịp nhìn rồi cắt địu ra khỏi đứa bé. Đứa bé nhớp nhúa trong máu đỏ khiến Starling phải rất vất vả mới giữ được.
Starling ôm đứa bé trong tay, nhướng mắt lên vì đau đớn. Trông thấy nước xịt lên từ phía chợ cá, cô liền bế đứa trẻ đầy máu me chạy đến đó. Gạt đống dao và ruột cá sang một bên, cô đặt đứa trẻ lên mặt thớt rồi bật ống nước xịt lên người nó. Đứa bé da đen nằm trên mặt thớt trắng giữa ngổn ngang dao, ruột cá và một cái đầu cá mập, đang được tẩy rửa khỏi dòng máu nhiễm HIV dương tính, máu của Starling rỏ xuống đứa trẻ cũng bị tẩy trôi đi cùng với máu của Evelda hòa thành một dòng mặn như nước biển.
Nước bắn lên thành dải cầu vồng, lời hứa của Chúa dành cho Noah, giờ giống như một dải sáng lấp lánh mỉa mai tác phẩm tạo ra dưới cây búa mù quáng của Ngài. Starling không thấy vết đạn nào trên người đứa trẻ. Loa vẫn oang oang bản La Macarena, ánh đèn flash nháy lên liên tục cho đến khi Hare lôi tên chụp hình đi.