Từ nhiều hôm trước khi chúng tôi đi, tôi đã hình dung trong đầu cách tôi và Tommy đứng trước cánh cửa đó, cố lấy hết tinh thần để nhấn chuông, rồi phải đợi mà tim cứ đập thình thịch. Tuy nhiên, hóa ra chúng tôi gặp may và không phải chịu đựng cái thử thách gian nan ấy.
Đến lúc ấy thì chúng tôi cũng xứng đáng được chút may mắn, bởi ngày hôm đó hoàn toàn không suôn sẻ chút nào. Trên đường đi xe giở chứng nên chúng tôi đến chỗ làm xét nghiệm cho Tommy trễ mất một tiếng. Rồi ở bệnh viện lại xảy ra chuyện hiểu lầm khiến Tommy phải làm lại ba trong các xét nghiệm. Chuyện đó khiến anh cảm thấy hơi chóng mặt, nên khi rốt cuộc chúng tôi cũng khởi hành đến Littlehampton vào lúc xế chiều, anh bắt đầu bị say xe nên chốc chốc chúng tôi phải dừng để anh đi bộ một lát cho đỡ say.
Cuối cùng chúng tôi cũng đến nơi ngay trước sáu giờ. Chúng tôi đỗ xe đằng sau phòng chơi bingo, lấy trong ngăn hành lý ra chiếc túi thể thao đựng những cuốn sổ bìa đen của Tommy rồi đi về phía trung tâm thành phố. Hôm đó đẹp trời nên mặc dù quán xá đều đóng cửa, vẫn có nhiều người luẩn quẩn quanh các quán rượu, vừa uống vừa trò chuyện. Càng đi Tommy càng thấy dễ chịu hơn, cho đến khi rốt cuộc anh nhớ ra rằng vì phải xét nghiệm mà anh đã lỡ bữa trưa, nên bèn tuyên bố anh sẽ phải ăn trước khi đối mặt với những gì đang đợi chúng tôi phía trước. Thế rồi giữa khi chúng tôi đang tìm chỗ nào đó có bán xăng-uých mang đi thì đột ngột anh túm tay tôi, mạnh đến nỗi tôi cứ ngỡ anh đang bị đột quỵ hay sao đó. Nhưng rồi anh nói khẽ vào tai tôi:
“Bà ấy kìa Kath. Vừa đi ngang qua hiệu làm đầu.”
Quả đúng là bà ta, đang đi dọc vỉa hè bên kia đường, vẫn mặc bộ đồ màu xám tinh tươm, hệt những bộ hồi xưa bà ấy luôn luôn mặc.
Chúng tôi cất bước theo sau Madame cách một quãng vừa phải, đầu tiên băng qua khu vực cho người đo bộ, sau đó dọc theo Đại lộ Chính gần như vắng ngắt. Tôi nghĩ lúc đó hai chúng tôi đều nhớ đến cái hôm chúng tôi theo chân nguyên mẫu của Ruth khắp một thành phố khác. Nhưng lần này mọi chuyện đơn giản hơn nhiều, vì chẳng mấy chốc bà ta đã dẫn chúng tôi đến con phố chạy dài ven bờ biển.
Bởi đường ở đây thẳng tắp và ánh mặt trời đang lặn soi sáng tận cuối đường nên chúng tôi nhận ra mình có thể để Madame cách phía trước một quãng xa – cho đến khi bà ta chỉ còn là một chấm nhỏ, không hơn – và sẽ không còn nguy cơ lạc mất bà ta nữa. Thật ra chúng tôi vẫn không thôi nghe tiếng đôi gót giày của bà ta khua trên mặt đường, và tiếng cái túi của Tommy va lịch kịch đều đều vào chân anh nghe như đáp lại.
Chúng tôi cứ đi như vậy hồi lâu, ngang qua những dãy nhà giống hệt nhau. Rồi những căn nhà phía bên kia đường cũng không còn, thay vào đó xuất hiện những bãi cỏ bằng phẳng, và phía xa sau những bãi cỏ có thể thấy nóc những căn lều chạy dọc theo bãi biển. Bản thân mặt nước thì ta không thấy được, nhưng vẫn biết là nó có đấy, chỉ cần xét qua bầu trời cao rộng và tiếng lũ hải âu.
Nhưng các căn nhà bên phía chúng tôi thì vẫn tiếp tục không đổi, và sau một lát tôi nói với Tommy:
“Không còn xa nữa đâu. Thấy cái băng ghế đằng kia không? Em hay ngồi đấy đấy. Căn nhà thì ngay đằng kia.”
Từ nãy đến giờ Tommy vẫn khá bình thản. Nhưng ngay khi tôi nói vậy thì dường như có gì đó nổi lên bên trong anh nên anh bắt đầu bước nhanh hơn nhiều, như thể anh muốn bắt kịp bà ta. Nhưng giờ không còn ai khác giữa Madame và chúng tôi, nên vì Tommy càng lúc càng rút ngắn khoảng cách, tôi phải túm tay anh buộc anh đi chậm lại. Tôi cứ sợ bà ta quay lại nhìn chúng tôi, nhưng bà ta không quay lại, thế rồi bà ta rẽ vào cái lối đi nhỏ trước cổng nhà mình. Bà ta dừng lại trước cửa vào rồi đứng lại lục chìa khóa trong cái xắc tay, thế rồi chúng tôi đã tới, đứng ngay cạnh cổng bà ta mà quan sát bà. Bà vẫn không quay lại, và tôi chợt có ý nghĩ ngay từ đầu bà ta đã biết có chúng tôi đi theo và cố tình lờ chúng tôi đi. Tôi cũng nghĩ Tommy sắp sửa hét lên gì đó với bà ta và làm vậy là sai. Chính vì vậy tôi mới lên tiếng từ chỗ cổng vào, quá nhanh mà không do dự.
Đó chỉ là một câu “Xin lỗi!” lịch sự, nhưng bà ta quay ngoắt lại như thể tôi vừa ném cái gì vào bà ta vậy. Và khi cái nhìn bà ta hướng vào chúng tôi, một cảm giác ớn lạnh chạy khắp người tôi, hệt như cảm giác tôi từng thấy nhiều năm trước khi chúng tôi rình bà ta bên ngoài ngôi nhà chính. Ánh mắt bà ta cũng lạnh lùng, và khuôn mặt bà ta thậm chí còn khắc nghiệt hơn tôi nhớ nữa. Tôi không biết liệu bà ta có nhận ra chúng tôi ngay lúc đó không; nhưng không nghi ngờ gì nữa, bà ta nhìn và trong một giây bà nhận ra chúng tôi là cái thứ gì, bởi có thể thấy bà ta cứng người lại – như thể người ta vừa mới thả một cặp nhện to đùng cho chúng bò về phía bà ta.
Thế rồi một cái gì đó thay đổi trong vẻ mặt bà ta. Không hẳn là khuôn mặt bà trở nên ấm áp hơn. Nhưng cái nỗi ghê gớm kia đã bị cất đi đâu đó, và bà ta cẩn thận dò xét chúng tôi, mắt nheo nheo trong ánh mặt trời đang lặn.
“Madame ạ,” tôi nói, tì người lên cổng. “Chúng tôi không muốn làm bà bị sốc hay gì gì cả. Nhưng chúng tôi trước ở Hailsham. Tôi là Kathy H., chắc bà còn nhớ. Còn đây là Tommy D. Chúng tôi đến đây không phải để làm phiền bà đâu.”
Bà ta tiến vài bước về phía chúng tôi. “Trước ở Hailsham,” và nói, và một nụ cười khẽ thực sự hiện trên mặt bà. “Chà, ngạc nhiên thật. Nếu các em không phải đến để làm phiền tôi thì sao các em lại ở đây?”
Đột nhiên Tommy nói: “Chúng tôi phải nói chuyện với bà. Tôi có mang theo vài thứ,” anh ấy giơ cái túi lên, “vài thứ mà có thể bà sẽ muốn cho vào Phòng Tranh. Chúng tôi phải nói chuyện với bà.”
Madame vẫn đứng đó, hầu như không cử động trong ánh nắng nhá nhem, đầu nghiêng nghiêng như thể lắng nghe âm thanh nào đó từ phía bãi biển. Rồi bà lại mỉm cười, mặc dù bà không có vẻ cười với chúng tôi mà với chính mình.
“Được lắm. Vào trong đi. Rồi ta sẽ xem các em muốn nói chuyện gì.”
Khi bước vào bên trong, tôi đã để ý thấy cửa trước có lắp kính màu, cho nên khi Tommy vào rồi đóng cửa lại thì mọi thứ trở nên khá tối. Chúng tôi vừa vào một tiền sảnh hẹp đến nỗi có cảm giác như chỉ cần khuỳnh hai cùi chỏ ra là chạm tường cả hai bên. Madame đã đứng lại đằng trước chúng tôi và đang bất động, quay lưng về phía chúng tôi, lại có vẻ như đang lắng nghe. Nhìn qua vai bà, tôi thấy tiền sảnh hẹp là vậy nhưng lại còn chia ra nữa: về bên trái là thang dẫn lên tầng trên, về bên phải là một lối đi còn hẹp hơn dẫn sâu vào nhà.
Theo gương Madame, tôi cũng lắng nghe, nhưng chỉ có im lặng trong ngôi nhà. Thế rồi, có lẽ từ đâu đó trên lầu có một tiếng thịch khe khẽ. Cái tiếng động nhỏ đó dường như có ý nghĩa gì đấy với bà, bởi lúc này bà lại quay sang chúng tôi và chỉ vào lối đi tối om om mà nói:
“Vào trong đó đợi tôi. Tôi sẽ xuống ngay.”
Bà bắt đầu lên thang, nhưng thấy chúng tôi còn do dự, bà lại cúi người qua thành vịn cầu thang mà chỉ tay vào bóng tối.
“Trong đó,” bà nói, rồi biến mất lên tầng trên.
Tommy và tôi lững thững đi về phía trước và thấy mình đang ở nơi ắt hẳn là phòng trước của ngôi nhà. Như thể có một người đầy tớ hay ai đó đã chuẩn bị sẵn nơi này cho buổi đêm rồi đi khỏi: rèm đã kéo lại, những ngọn đèn bàn mờ mờ đã bật lên. Tôi ngửi thấy mùi đồ đạc cũ, chắc từ thời Victoria. Lò sưởi bị ngăn lại bằng một tấm ván, chỗ trước kia là ngọn lửa thì nay là một bức tranh được dệt như tấm thảm thêu, mô tả một con chim kỳ lạ giống như con cú đang nhìn chòng chọc vào ta. Tommy vừa chạm tay tôi vừa chỉ một bức tranh đóng khung treo trong góc phía trên một chiếc bàn tròn nhỏ.
“Hailsham đó,” anh ấy thì thầm.
Chúng tôi bước lại gần, nhưng tôi thấy không chắc lắm. Tôi thấy đó là một bức tranh màu nước khá đẹp, nhưng ngọn đèn bàn bên dưới có hình dạng méo mó phủ đầy vết mạng nhện nên thay vì soi tỏ bức tranh, nó chỉ hắt bóng sáng lên lớp kính đùng đục nên thật khó khăn mới nhìn rõ được.
“Đó là cái khoảnh phía sau ao vịt đấy,” Tommy nói.
“Ý anh là sao?” tôi thì thầm trả lời. “Có cái ao nào đâu. Chỉ là một cảnh thôn quê thôi.”
“Không, cái ao sau lưng mình ấy,” Tommy có vẻ bực bội một cách đáng ngạc nhiên. “Em phải nhớ mới phải chứ. Nếu mình xoay lưng lại, cái ao ở đằng sau, và mình nhìn về phía Sân chơi phía Bắc…”
Chúng tôi lại im lặng bởi nghe thấy những giọng nói ở đâu đó trong ngôi nhà. Nghe như tiếng một người đàn ông, có thể người đó đang trên lầu đi xuống. Rồi chúng tôi nghe rõ ràng là tiếng Madame đang vừa xuống lầu vừa nói: “Phải, các em nói đúng. Hoàn toàn đúng.”
Chúng tôi chờ Madame bước vào, nhưng chân bà lại đi ngang qua cửa sổ về phía cuối nhà. Tôi chợt nghĩ bà đang đi pha trà và lấy bánh nướng cho vào xe đẩy mang ra, nhưng rồi tôi lại nghĩ làm gì có chuyện đó, bà ấy đã quên bẵng chúng tôi thì có, và bà sắp sửa nhớ ra, lại sắp bước vào bảo chúng tôi xéo đi đây. Thế rồi một giọng đàn ông cộc cằn từ trên lầu gọi ai đó, bị nghẹt đi đến nỗi không chừng phải cách đến hai tầng. Bước chân của Madame lại quay vào tiền sảnh, rồi bà ta gọi lên: “Tôi đã bảo phải làm gì rồi. Cứ làm như tôi đã giải thích đi.”
Tommy và tôi đợi thêm vài phút nữa. Thế rồi bức tường ở cuối phòng bắt đầu chuyển động, và tôi hầu như ngay lập tức thấy đó thực ra không phải một bức tường mà là một đôi cửa trượt ta có thể dùng để ngăn đôi nửa trước của căn phòng vốn dĩ khá dài. Madame đẩy hai cánh cửa ra một phần và lúc này bà ta đứng đó nhìn chúng tôi chằm chặp. Tôi cố nhìn qua sau lưng bà ta, nhưng chỉ thấy toàn bóng tối. Tôi nghĩ bà ta đang đợi chúng tôi giải thích tại sao chúng tôi đến đây, nhưng sau rốt bà ta nói:
“Các em bảo các em là Kathy H. và Tommy D. Tôi nói đúng không? Mà các em ở Hailsham hồi nào vậy?”
Tôi nói cho bà rõ, nhưng chẳng cách nào biết được bà có nhớ hay không. Bà vẫn đứng đó trên ngưỡng cửa, như thể do dự không muốn vào. Nhưng giờ thì Tommy lại nói:
“Chúng tôi không muốn làm phiền bà lâu đâu. Nhưng có một chuyện chúng tôi phải nói với bà.”
“Được rồi, vậy các em nói đi. Các em cứ tự nhiên thì tốt hơn.”
Bà ta rướn người đặt hai tay lên lưng hai chiếc ghế bành giống nhau trước mặt bà. Có cái gì đó là lạ trong cung cách của bà, như thể không hẳn bà mời chúng tôi ngồi xuống. Tôi có cảm tưởng nếu chúng tôi làm như bà gợi ý mà ngồi lên những chiếc ghế đó, bà sẽ vẫn cứ đứng sau lưng chúng tôi, thậm chí không nhấc tay ra khỏi hai bên lưng ghế nữa. Nhưng khi chúng tôi tiến một bước lại gần bà thì bà cũng tiến lên, và – có lẽ chỉ là tôi tưởng tượng ra – bà ta rụt hai vai lại khi đi ngang qua chúng tôi. Khi chúng tôi xoay người để ngồi xuống, bà đã đứng cạnh cửa sổ, phía trước những chiếc rèm nặng bằng nhung, nhìn đăm đăm chúng tôi như thể chúng tôi đang ở trong một lớp học còn bà là cô giáo. Ít nhất thì cũng có vẻ như thế đối với tôi vào khoảnh khắc đó. Về sau Tommy bảo anh ấy cứ nghĩ bà sắp bật lên hát, những chiếc rèm sau lưng bà sẽ mở ra, và thay vì đường phố cùng trảng cỏ bằng phẳng chạy dài ra bờ biển thì ngoài đó là sàn sân khấu lớn như cái chúng tôi từng có ở Hailsham, thậm chí có cả một dàn đồng ca phụ họa cho bà nữa. Thật buồn cười khi nghe anh nói như vậy sau này, và tôi lại nhìn thấy bà ta, hai bàn tay đan vào nhau, cùi chỏ khuỳnh ra, đúng là giống như bà đang chuẩn bị hát thật. Nhưng tôi ngờ rằng khi đó vị tất Tommy đang nghĩ một điều gì như vậy. Tôi nhớ khi đó mình để ý thấy Tommy căng thẳng đến mức nào, và cứ lo ngộ nhỡ anh buột mồm nói điều gì đó hoàn toàn xuẩn ngốc. Chính vì vậy mà khi bà ta hỏi chúng tôi, không phải là không ân cần, rằng chúng tôi muốn gì, thì tôi nhanh chóng lên tiếng trước.
Ban đầu có lẽ lời tôi khá là lộn xộn, nhưng lát sau, khi tôi trở nên tự tin rằng bà ta sẽ lắng nghe đến hết, tôi bình tĩnh lại và nói rõ ràng hơn. Tôi đã suy đi nghĩ lại trong đầu suốt tuần này sang tuần khác xem mình sẽ nói gì với bà ta. Tôi cứ ôn đi ôn lại trong những chuyến đi dài rong ruổi ô tô, giữa lúc ngồi bên những chiếc bàn yên tĩnh ở quán cà phê cạnh trạm xăng. Những lúc ấy việc này có vẻ thật khó, nên rốt cuộc tôi đành viện đến một kế hoạch: tôi sẽ học thuộc lòng, từng chữ một, vài câu then chốt, sau đó thì vẽ một tấm bản đồ trong trí xem tôi sẽ đi từ điểm này sang điểm nọ bằng cách nào. Nhưng lúc này khi bà ta đứng trước mặt tôi, hầu hết những gì tôi cất công chuẩn bị đều dường như hoặc không cần thiết hoặc hoàn toàn sai bét. Điều lạ là – và Tommy cũng đồng ý như vậy khi chúng tôi bàn đến chuyện này về sau – mặc dù hồi ở Hailsham bà ta từng là một người lạ đầy thù địch từ bên ngoài đến, nhưng lúc này khi chúng tôi đối mặt bà thì, thậm chí bà không nói cũng chẳng làm gì tỏ ra có chút nhiệt tình nào với chúng tôi, tôi vẫn cảm thấy Madame như một người thân thiết, một người gần gũi chúng tôi hơn bất cứ người mới nào chúng tôi đã gặp trong mấy năm trở lại đây. Chính vì vậy đột nhiên tất cả những gì tôi đã chuẩn bị trong đầu biến đâu mất cả, và tôi nói với bà ta một cách chân thành, giản dị, gần như tôi đang nói với một giám thị từ nhiều năm trước. Tôi kể với bà những chuyện chúng tôi nghe được, tin đồn về chuyện học sinh Hailsham và chuyện hoãn hiến tạng; rằng chúng tôi hiểu tin đồn đó có thể không chính xác, và chúng tôi không trông mong điều gì cả.
“Mà thậm chí nếu đúng vậy, chúng tôi cũng biết bà chắc phải phát mệt về chuyện đó, bởi bao nhiêu cặp đến gặp bà để bảo rằng họ đang yêu,” tôi nói. “Còn Tommy với tôi, nếu chúng tôi không tin chắc thì chúng tôi đã chẳng bao giờ đến gặp bà.”
“Tin chắc ư?” Nãy giờ đã lâu rồi bà ta mới nói lần đầu, và cả hai chúng tôi đều giật nảy mình đôi chút vì ngạc nhiên. “Các em bảo các em tin chắc? Tin chắc là mình yêu nhau? Làm sao các em biết được? Các em tưởng tình yêu đơn giản vậy sao? Vậy là các em yêu nhau. Yêu sâu đậm. Có phải các em muốn nói với tôi vậy không?”
Giọng bà ta nghe gần như là mai mỉa, nhưng rồi tôi hơi sửng sốt thấy những giọt nước mắt nhỏ nơi mắt bà trong khi bà nhìn chúng tôi từ người này đến người kia.
“Các em tin thế à? Rằng các em yêu nhau sâu đậm. Và vì vậy các em đến gặp tôi vì cái… cái chuyện hoãn đó sao? Tại sao? Tại sao các em đến gặp tôi?”
Nếu bà ta hỏi câu đó một cách dứt khoát, như thể toàn bộ ý nghĩ này là hoàn toàn điên rồ, thì chắc hẳn tôi đã cảm thấy choáng váng rồi. Nhưng bà ta không hẳn nói theo lối ấy. Bà hỏi câu đó gần như thể đó là một câu hỏi mà câu trả lời bà đã biết rồi; thậm chí, như thể bà ta đã tiếp những đôi khác qua cùng một thủ tục giống hệt nhiều lần trước đây rồi. Đó là điều khiến tôi hy vọng. Nhưng Tommy chắc hẳn đã đâm ra lo lắng, bởi đột nhiên anh ấy bật ra:
“Chúng tôi đến gặp bà vì Phòng Tranh của bà. Chúng tôi nghĩ là mình biết Phòng Tranh của bà dùng để làm gì.”
“Phòng Tranh của tôi?” Bà tựa người lên bậu cửa sổ, khiến mấy tấm rèm đu đưa sau lưng bà, rồi chầm chậm hít vào một hơi. “Phòng Tranh của tôi. Chắc các em muốn nói bộ sưu tập của tôi. Mấy bức tranh, bài thơ, tất cả những thứ của các em mà tôi đã thu thập suốt bao năm qua. Việc đó chẳng dễ gì đối với tôi, nhưng tôi tin ở nó, hồi đó tất cả chúng tôi tin vào việc đó. Thế là các em cho rằng mình biết thu thập như vậy để làm gì, tại sao chúng tôi làm vậy. Ừ, nếu được nghe ai đó cho biết như vậy thì thú vị lắm. Bởi tôi phải nói rằng chính tôi cũng tự hỏi mình câu ấy, lúc nào cũng tự hỏi mình câu ấy.” Bà đột nhiên chuyển cái nhìn từ Tommy sang tôi. “Tôi có đi quá nhanh không?” bà hỏi.
Tôi không biết nói sao, nên chỉ đáp: “Không, không.”
“Tôi đi quá xa,” bà nói. “Tôi xin lỗi. Tôi thường đi quá xa mỗi khi nói đến đề tài này. Quên những gì tôi vừa nói đi. Chàng trai trẻ ạ, em sắp nói chuyện với tôi về Phòng Tranh của tôi. Vậy hãy nói cho tôi nghe đi.”
“Làm vậy là để cho bà biết,” Tommy nói. “Để bà có cái gì đó mà xử trí. Chứ nếu không thì bà biết làm thế nào khi có những học sinh đến gặp bà mà nói họ yêu nhau?”
Cái nhìn của Madame đã chuyển sang tôi, nhưng tôi có cảm giác bà ta đang chăm chú nhìn cái gì đó trên cánh tay tôi. Đến nỗi tôi cúi xuống xem liệu có cứt chim hay gì đó trên tay áo mình không. Rồi tôi nghe bà nói:
“Và các em nghĩ đó là lý do tại sao tôi thu thập những món ấy của các em. Phòng Tranh của tôi, như các em luôn gọi vậy. Tôi đã bật cười khi lần đầu biết được rằng các m gọi nó thế. Nhưng theo thời gian, chính tôi rốt cuộc cũng nghĩ về nó như vậy. Phòng Tranh của tôi. Giờ thì, chàng trai ạ, giải thích cho tôi xem tại sao. Tại sao Phòng Tranh của tôi lại có thể giúp tôi biết được ai trong số các em thực sự đang yêu?”
“Bởi vì nó sẽ cho bà thấy chúng tôi là người thế nào,” Tommy nói. “Bởi vì…”
“Bởi vì dĩ nhiên” – Madame đột ngột cắt ngang – “nghệ thuật của em sẽ phát lộ cái ngã nội tại của các em! Vì vậy đó, phải không? Bởi vì nghệ thuật của em sẽ cho thấy tâm hồn của các em!” Rồi đột nhiên bà lại quay sang tôi mà hỏi: “Tôi có đi quá xa không?”
Bà ta đã nói câu đó một lần rồi, và một lần nữa tôi có ấn tượng bà đang nhìn chăm chăm vào một điểm trên tay áo tôi. Nhưng lúc đó một nỗi ngờ vực mơ hồ, mà khi bà ta hỏi câu “Tôi có đi quá xa không?” lần trước tôi chưa hề có, liền bắt đầu trỗi dậy. Tôi thận trọng nhìn Madame, nhưng dường như bà ta nhận thấy sự dò xét của tôi nên lại quay sang Tommy.
“Được rồi,” bà nói. “Ta tiếp tục. Em đang nói gì với tôi ấy nhỉ?”
“Cái khó là hồi đó tôi hơi rối trí,” Tommy nói.
“Em đang nói gì về nghệ thuật của em. Rằng nghệ thuật phơi bày tâm hồ người nghệ sĩ.”
“Tôi đang muốn nói là hồi đó tôi bị rối trí đến nỗi thực ra không vẽ vời gì cả.” Tommy vẫn kiên trì nói. “Tôi không làm gì hết. Giờ thì tôi biết lẽ ra tôi phải vẽ, nhưng chỉ vì tôi rối trí quá thôi. Cho nên bà chẳng có cái nào của tôi trong Phòng Tranh cả. Tôi biết đó là lỗi của tôi, và tôi biết có lẽ giờ thì đã quá muộn, nhưng hôm nay tôi có mang theo vài thứ đây.” Anh ấy giơ cái túi xách lên rồi bắt đầu kéo khóa ra. “Vài cái trong số này mới vẽ gần đây, nhưng vài cái khác thì từ lâu lắm rồi. Những món của Kath thì chắc bà đã có rồi. Cô ấy có nhiều thứ được đưa vào Phòng Tranh lắm. Phải không hở Kath?”
Trong một khoảnh khắc, cả hai người nhìn tôi. Rồi Madame nói, hầu như không nghe được.
“Những kẻ đáng thương. Chúng tôi đã làm gì các em vậy/ Với tất cả những mưu đồ và kế hoạch của chúng tôi?” Bà không nói nốt, và hình như tôi lại thấy những giọt lệ trong mắt bà. Rồi bà quay sang tôi mà hỏi: “Chúng ta có nói tiếp chuyện này không? Ta có nói nữa không?”
Chính khi bà ta nói vậy, cái ý nghĩ mơ hồ trong tôi từ nãy đến giờ bỗng trở thành một cái gì cụ thể hơn. “Tôi có đi quá xa không?” Còn bây giờ thì: “Ta có nói nữa không?” Tôi nhận ra và chợt thoáng rùng mình rằng những câu hỏi đó chưa bao giờ dành cho tôi hay cho Tommy mà cho một người khác – một ai đó đang lắng nghe sau lưng chúng tôi, trong nửa tối của căn phòng.
Tôi chầm chậm quay người lại nhìn vào trong bóng tối. Tôi chẳng thấy gì, nhưng nghe thấy một âm thanh, một âm thanh kim khí, xa đến kỳ lạ – căn nhà dường như kéo dài vào trong bóng tối sâu hơn tôi đã đoán nhiều. Rồi tôi nhận ra một dáng người đang di chuyển về phía chúng tôi, và một giọng phụ nữ cất lên: “Có, Marie-Claude ạ. Chúng ta hãy nói tiếp.”
Tôi đang còn nhìn vào bóng tối thì chợt nghe Madame bật ra tiếng gì đó như khịt mũi, đoạn bà ta sải bước ngang qua chúng tôi vào trong chỗ tối. Thế rồi có nhiều âm thanh kim khí hơn, và Madame ló ra, vừa đi vừa đẩy một người ngồi trên xe lăn. Bà lại đi ngang qua chúng tôi, và trong một khoảnh khắc lâu hơn, bởi lưng của Madame che khuất tầm nhìn, tôi không thấy rõ được người ngồi trên xe lăn. Nhưng rồi Madame lái chiếc xe xoay lại đối diện với chúng tôi và nói:
“Chị nói với họ đi. Họ đến là nói chuyện với chị mà.”
“Tôi cũng nghĩ vậy.”
Người ngồi trên xe lăn yếu ớt và rúm ró, và chỉ giọng nói chứ không gì khác mới giúp chúng tôi nhận ra bà.
“Cô Emily,” Tommy nói, rất khẽ khàng.
“Chị nói với họ đi,” Madame nói, như thể phủi tay mọi chuyện. Nhưng rồi bà ta vẫn đứng sau chiếc xe lăn, mắt sáng rực nhìn về phía chúng tôi.