Tommy và tôi không thể tin rằng thế là hết. Không ai trong chúng tôi đứng dậy, nhưng cũng không có dấu hiệu nào cho thấy có ai sẽ giúp cô Emily đứng dậy khỏi xe lăn. Trong một khoảnh khắc tôi tự hỏi liệu bà có cố gắng tự đứng dậy không, nhưng bà vẫn ngồi yên, cúi người về phía trước như cũ mà chăm chú lắng nghe. Rồi Tommy nói:
“Vậy là chắc chắn không có gì hết. Không có chuyện hoãn, không có chuyện gì như vậy hết.”
“Tommy,” tôi vừa lẩm bẩm vừa liếc nhìn anh. Nhưng cô Emily nhẹ nhàng nói:
“Không, Tommy ạ. Không có chuyện gì như vậy hết. Cuộc đời các em đã được định thế nào thì phải cứ thế thôi.”
“Vậy thì, điều cô muốn noi là tất cả những gì chúng em đã làm, những bài học, tất tất cả. Rốt lại thì tất cả là những gì cô vừa nói với chúng em sao? Không có gì hơn thế sao?”
“Tôi hiểu rằng trông có vẻ như các em chỉ là những con tốt trong một ván cờ,” cô Emily nói. “Chắc chắn là người ta có thể coi như vậy. Nhưng hãy nghĩ xem. Các em là những con tốt may mắn. Đã từng có một thời thế nhất định, nhưng nay thời thế đó đã qua. Các em phải chấp nhận rằng đôi khi mọi sự xảy ra như thế trên thế giới này. Ý kiến của thiên hạ, cảm xúc của họ, nó lúc thế này khi thế khác. Chỉ ngẫu nhiên mà các em lớn lên tại một thời điểm nhất định trong cái quá trình này.”
“Có thể đó chỉ là một xu thế xuất hiện rồi qua đi,” tôi nói. “Nhưng với chúng em, đó là cuộc đời của chúng em.”
“Phải, đúng vậy. Nhưng nghĩ mà xem. Các em may mắn hơn so với nhiều người trước các em. Và ai biết được những người đến sau các em sẽ phải đối mặt với những gì. Tôi xin lỗi, các em học sinh ạ, nhưng giờ tôi phải đi thôi. George! George ơi!”
Có nhiều tiếng ồn ngoài tiền sảnh, có lẽ vì vậy mà George không nghe thấy, vì không có tiếng trả lời. Tommy đột ngột hỏi:
“Có phải vì vậy mà cô Lucy bỏ đi không?”
Trong một thoáng tôi cứ nghĩ cô Emily vì đang chú ý đến những gì đang diễn ra trong tiền sảnh nên không nghe thấy anh hỏi. Bà tựa lưng trở lại vào xe lăn và bắt đầu từ từ di chuyển xe về phía cửa. Có quá nhiều chiếc bàn nhỏ để uống cà phê và ghế nhỏ đến nỗi xem ra không có lối đi, nên tôi đã dợm đứng dậy dẹp lối cho bà thì bà bỗng dừng lại.
“Lucy Wainright,” bà nói. “À phải. Chúng tôi gặp chút ít rắc rối với cô ấy.” Bà ngừng nói, rồi chỉnh chiếc xe lăn để quay lại đối diện với Tommy. “Một sự bất đồng. Nhưng để trả lời câu hỏi của em, Tommy ạ. Sự bất đồng đó không có liên quan gì đến những điều tôi vừa nói cho các em. Ít nhất thì cũng không có liên quan trực tiếp. Không, đúng hơn thì nên nói đó là một vấn đề nội bộ.”
Tôi cứ nghĩ bà chỉ nói đến đó rồi thôi, nên tôi hỏi: “Cô Emily à, nếu được, chúng em muốn biết chuyện ấy, chuyện gì đã xảy ra với cô Lucy.”
Cô Emily nhướn mày lên. “Lucy Wainright ấy à? Cô ấy quan trọng với các em sao? Tha lỗi cho tôi, các em thân mến ạ, tôi lại quên nữa rồi. Lucy không ở với chúng tôi đã từ lâu, nên với chúng tôi cô ấy chỉ là một nhân vật thứ yếu trong ký ức của chúng tôi về Hailsham. Mà cũng không phải là một nhân vật vui vẻ gì cho lắm. Nhưng tôi cũng vui, nếu trong ngần ấy năm mà các em vẫn thế…” Bà cười một mình và dường như đang nhớ lại chuyện gì. Ngoài tiền sảnh, Madame đang khá to tiếng với đám đàn ông, nhưng cô Emily lúc này dường như không còn quan tâm nữa. Bà đang lục lại ký ức mình với vẻ tập trung. Cuối cùng bà nói: “Cô ấy là một cô gái khá dễ thương. Lucy Wainright ấy. Nhưng sau khi ở bên chúng tôi một thời gian, cô ấy bắt đầu có những ý nghĩ kia. Cô ấy cho rằng học sinh các em cần được biết nhiều hơn. Biết nhiều hơn về những gì phía trước các em, các em là ai, các em sinh ra để làm gì. Rằng dù ta có làm gì mà nếu không được vậy thì chẳng khác nào lừa gạt các em. Chúng tôi đã cân nhắc quan điểm của cô ấy và kết luận rằng cô ấy lầm.”
“Tại sao?” Tommy hỏi. “Tại sao các cô nghĩ thế?”
“Tại sao ư? Cô ấy có ý tốt, nhất định là vậy. Tôi có thể thấy các em rất thích cô ấy. Cô ấy có những tố chất của một giám thị ưu tú. Nhưng điều mà cô ấy muốn làm, nó quá mang tính lý thuyết. Chúng tôi đã điều hành Hailsham suốt nhiều năm, chúng tôi ý thức được cái gì có thể làm, cái gì là tốt nhất cho các học sinh về lâu dài, ở ngoài Hailsham. Lucy Wainright là nhà lý tưởng chủ nghĩa, chuyện đó không có gì sai. Nhưng cô ấy không có cảm quan về những vấn đề thực tế. Các em thấy đó, chúng tôi đã có thể cho các em một cái gì đó, cái gì đó mà ngay cả bây giờ không ai tước khỏi các em được, và chúng tôi đã có thể làm vậy chủ yếu là bằng cách che chở các em. Hailsham hẳn đã không phải là Hailsham nếu chúng tôi không làm vậy. Được lắm, đôi khi vì che chở các em mà chúng tôi giấu các em điều này điều nọ, chúng tôi nói dối các em. Phải, theo nhiều cách thì chúng tôi đã lừa gạt các em. Thậm chí cả bây giờ có khi các em vẫn có thể gọi thế được. Nhưng chúng tôi đã che chở các em suốt ngần ấy năm, chúng tôi đã cho các em tuổi thơ. Lucy khá có thiện ý. Nhưng nếu cô ấy được làm theo cách của mình thì hạnh phúc của các em ở Hailsham đã tiêu tan rồi. Nhìn cả hai em bây giờ xem! Tôi rất tự hào được thấy cả hai em. Các em đã xây dựng đời mình dựa trên những gì chúng tôi cho các em. Các em hẳn đã không thành các em ngày nay nếu chúng tôi đã không bảo vệ các em. Các em hẳn đã không đắm mình vào những bài học, các em hẳn đã không say sưa vẽ, say sưa viết. Nếu đã biết tương lai mình được định đoạt thế nào thì còn học, còn vẽ, còn viết để làm gì? Các em hẳn đã bảo chúng tôi rằng mọi thứ đều vô ích, và chúng tôi làm sao tranh cãi với các em đây? Cho nên cô ấy phải đi thôi.”
Giờ thì chúng tôi nghe rõ tiếng Madame quát tháo những người đàn ông. Chắc chắn bà đã nổi cáu lắm, nhưng giọng của bà vẫn lạnh lùng đến đáng sợ, và giọng những người đàn ông mà từ nãy đến giờ cãi lý với bà vụt im thin thít.
“Có lẽ tôi cứ ở lại đây với các em cũng không sao,” cô Emily nói. “Marie-Claude làm mấy việc kiểu này hiệu quả hơn nhiều.”
Tôi không biết tại sao tôi nói thế. Có thể vì tôi biết cuộc viếng thăm này sắp kết thúc rồi; cũng có thể vì tôi tò mò muốn biết đích xác cô Emily và Madame cảm thấy thế nào về nhau. Dù thế nào thì thế, tôi vừa hạ giọng nói với cô Emily vừa gật đầu về phía cửa:
“Madame chẳng bao giờ ưa chúng em cả. Cô ấy lúc nào cũng sợ chúng em. Kiểu như người ta sợ nhện hay một cái gì như thế.”
Tôi đợi xem liệu cô Emily có nổi giận không, mà dù cô có giận thì tôi cũng chẳng bận tâm lắm nữa. Quả nhiên cô quay ngoắt sang tôi, như thể tôi vừa ném vào cô một quả bóng bằng giấy vo tròn, và mắt cô lóe lên theo cái lối khiến tôi nhớ lại hồi cô còn ở Hailsham. Nhưng giọng cô vẫn đều đều và nhẹ nhàng khi cô đáp:
‘Marie-Claude đã cho các em tất cả. Cô ấy đã làm việc, làm việc, làm việc không ngừng. Chớ có lầm về chuyện đó, em ạ. Marie-Claude đứng về phía các em và sẽ luôn luôn đứng về phía các em. Cô ấy sợ các em ấy à? Tất cả chúng tôi đều sợ các em. Bản thân tôi, hồi ở Hailsham, hầu như ngày nào tôi cũng phải kiềm chế nỗi kinh sợ các em. Có những lần tôi từ cửa sổ phòng làm việc nhìn xuống các em mà cảm thấy khiếp sợ đến nỗi…” Bà ngừng lời, rồi một cái gì đó trong mắt bà lại lóe lên. “ Nhưng tôi quyết tâm không để những cảm xúc như vậy ngăn cản mình làm điều phải. Tôi đấu tranh chống lại những cảm xúc đó và tôi đã thắng. Giờ thì các em làm ơn giúp tôi ra khỏi đây với. George chắc đang cầm nạng đợi sẵn rồi.”
Với mỗi người chúng tôi đỡ một bên, bà chầm chậm đi vào tiền sảnh, ở đó một người đàn ông to lớn mặc đồng phục y tá giật mình sợ hãi và vội chìa ra một đôi nạng.
Cửa trước mở ra ngoài phố và tôi ngạc nhiên thấy vẫn còn ánh sáng ban ngày. Giọng của Madame đang từ bên ngoài vọng vào, giờ thì bà nói năng bình tĩnh hơn với những người đàn ông. Có cảm giác đã đến lúc Tommy và tôi đi thôi, nhưng cái ông tên George đang giúp cô Emily mặc áo khoác trong khi bà đứng vững giữa hai cái nạng; chẳng có cách nào để chúng tôi len qua cả, nên chúng tôi đành đợi. Tôi cũng cho rằng hẳn lúc đó chúng tôi đợi nói lời từ biệt với cô Emily, có lẽ, dù sau chuyện gì đi nữa, chúng tôi vẫn muốn cám ơn bà, tôi không chắc. Nhưng cô Emily lúc này chỉ bận tâm đến cái tủ của bà thôi. Bà bắt đầu dặn dò gì đó có vẻ rất khẩn thiết với mấy người ở ngoài kia, rồi cùng George đi thẳng mà không ngoái lại chúng tôi.
Tommy và tôi nán lại trong tiền sảnh thêm một lát, không biết phải làm gì. Khi rốt cuộc chúng tôi cũng tha thẩn ra ngoài, tôi nhận thấy đèn đã bật sáng suốt dọc con phố dài mặc dù trời vẫn chưa tối hẳn. Một chiếc xe tải nhỏ màu trắng đang khởi động máy. Ngay phía sau là một chiếc Volvo đã cũ, cô Emily ngồi trong đó trên ghế dành cho khách. Madame đang khom người qua cửa sổ, vừa nghe cô Emily nói gì đó vừa gật gật đầu, trong khi George đóng cửa xe sau rồi đi vòng lên cửa dành cho tài xế. Rồi chiếc xe tải chạy đi, xe của cô Emily theo sau.
Madame quan sát hồi lâu những chiếc xe đang xa dần. Rồi bà quay lưng như để trở vào nhà, nhưng khi thấy chúng tôi đứng đó trên vỉa hè, bà ngừng phắt, gần như thụt lùi lại.
“Chúng tôi về đây,” tôi nói. “Cám ơn bà đã trò chuyện với chúng tôi. Nhờ bà chuyển lời chào tạm biệt cô Emily hộ chúng tôi.”
Tôi nhận thấy bà đang quan sát tôi trong ánh sáng nhá nhem. Rồi bà nói:
“Kathy H. Tôi nhớ em. Phải, tôi nhớ.” Bà im bặt nhưng vẫn tiếp tục nhìn tôi.
“Chắc là tôi biết bà đang nghĩ tới cái gì,” rốt cuộc tôi nói. “Tôi nghĩ là tôi đoán được.”
“Tốt lắm,” giọng bà mơ màng và cái nhìn của bà hơi mất tập trung. “Em đọc được ý nghĩ người khác đấy. Nói tôi nghe nào.”
“Có một lần bà gặp tôi, vào một buổi chiều, trong khu ký túc xá. Lúc đó xung quanh không có ai, và tôi đang mở băng, nghe nhạc. Tôi đang vừa múa vừa nhắm mắt thì bà bắt gặp tôi.”
“Tốt lắm. Đọc được ý nghĩ người khác thật. Lẽ ra em phải làm diễn viên mới phải. Mãi đến giờ tôi mới nhận ra em. Nhưng đúng vậy, tôi nhớ lần đó. Thỉnh thoảng tôi vẫn nghĩ về nó.”
“Thú vị thật. Tôi cũng vậy.”
“Tôi hiểu.”
Lẽ ra chúng tôi đã có thể chấm dứt cuộc trò chuyện ở đó. Lẽ ra chúng tôi đã có thể chào từ biệt rồi đi. Nhưng bà ta tiến lại gần chúng tôi hơn, mắt vẫn đăm đăm nhìn tôi.
“Hồi đó em nhỏ hơn bây giờ nhiều,” bà nói. “Nhưng mà phải, đúng là em.”
“Bà không phải trả lời nếu bà không muốn,” tôi nói. “Nhưng có điều này luôn làm tôi bối rối. Tôi có thể hỏi bà không?”
“Em đọc được ý nghĩ tôi. Nhưng ý nghĩ em thì tôi không đọc được.”
“Vâng, hôm ấy bà… xúc động. Bà quan sát tôi, và khi tôi biết mà mở mắt ra, bà vẫn nhìn tôi nghĩ bà đang khóc. Thực ra thì tôi biết, đúng là bà đang khóc. Bà vừa quan sát tôi vừa khóc. Tại sao vậy?”
Vẻ mặt Madame không thay đổi và bà vẫn nhìn đăm đăm vào mặt tôi. Cuối cùng bà nói, rất khẽ khàng, như thể sợ hàng xóm đang lắng nghe: “Tôi khóc vì khi tôi bước vào, tôi nghe thấy bản nhạc của em. Tôi cứ nghĩ có một học sinh ngốc nghếch nào đó mở nhạc rồi bỏ đi mất. Nhưng khi bước vào phòng ngủ của em, tôi thấy em, chỉ một mình, một bé gái nhỏ, đang múa. Như em nói, mắt thì nhắm lại, xa xăm, vẻ khát khao mong mỏi. Em đang múa như vậy một cách thật nồng nàn. Và còn âm nhạc, còn bài hát nữa. Có một cái gì đó trong lời hát. Hết sức buồn.”
“Bài hát ấy tên là Mãi đừng xa mẹ,” tôi nói. Rồi tôi thì thầm hát vài câu cho bà nghe. “Mãi đừng xa mẹ. Con ơi, con hỡi. Mãi đừng xa mẹ…”
Bà gật đầu như biểu lộ đồng tình. “Phải rồi, đúng bài ấy. Từ đó tới giờ tôi đã nghe một, hai lần. Trên ra-đi-ô, trên ti-vi. Mỗi lần nghe tôi lại nhớ lại cô bé kia, cứ múa một mình.”
“Bà nói bà không phải là người đọc được tâm tư kẻ khác,” tôi nói. “Nhưng có lẽ hồi đó bà là người như vậy. Có lẽ chính vì vậy bà mới chợt khóc khi thấy tôi. Bởi dù thật ra bài hát là về cái gì đi nữa, nhưng khi tôi múa thì trong đầu tôi, tôi có một dị bản riêng của mình về nó. Bà hiểu không, tôi hình dung rằng bài hát nói về một phụ nữ vừa bị người ta nói rằng mình không thể có con. Nhưng rồi cô lại có, và cô vui sướng quá, cô ôm đứa bé vào ngực mình thật chặt, chỉ sợ một điều gì đó xảy ra sẽ chia lìa hai mẹ con, và cô hát con ơi, con hỡi, đừng để mẹ xa con. Thật ra nội dung bài hát hoàn toàn không phải vậy, nhưng lần ấy tôi hiểu nó trong đầu như thế. Có lẽ bà đọc được tâm tư tôi, chính vì thế bà thấy nó buồn đến vậy. Lần ấy tôi không cho rằng bài hát buồn đến thế, nhưng bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi thấy đúng là nó hơi buồn thật.
Tôi nói với Madame, nhưng tôi cảm thấy Tommy nhích lại gần tôi, nhận thấy rõ lớp vải quần áo anh mặc, cảm nhận rõ mọi thứ về anh. Rồi Madame nói:
“Thú vị lắm. Nhưng hồi đó tôi cũng chẳng đọc được tâm tư người khác hơn gì bây giờ. Tôi khóc vì một lý do hoàn toàn khác. Khi tôi quan sát em múa lần đó, tôi thấy một diều khác. Tôi thấy một thế giới mới đang đến nhanh chóng. Khoa học hơn, hiệu quả hơn, thì đúng. Nhiều cách chữa hơn cho những căn bệnh trước kia. Hay lắm. Nhưng là một thế giới nghiệt ngã, độc ác. Còn đây tôi thấy một cô bé, mắt nhắm tịt, ghì chặt vào ngực mình cái thế giới tử tế và nhân hậu trước kia, cái thế giới mà trong thâm tâm cô biết rằng không thể còn lại nữa, cho nên cô ghì chặt nó vào lòng, cầu xin nó đừng bao giờ để cô xa nó. Tôi thì thấy như vậy đó. Thật ra đó không phải là em, không phải là điều em đang làm, tôi biết. Nhưng tôi nhìn thấy em và cảnh đó khiến tôi đau lòng. Tôi chẳng bao giờ quên được.”
Rồi bà tiến lên cho đến khi chỉ còn cách chúng tôi một, hai bước. “Câu chuyện các em kể chiều nay, chúng cũng làm tôi xúc động.” Lúc này bà nhìn Tommy, sau đó mới trở lại nhìn tôi. “Những kẻ đáng thương. Ước gì tôi giúp các em được. Nhưng giờ các em phải tự liệu lấy thôi.”
Bà chìa tay ra, mắt vẫn đăm đắm nhìn mặt tôi, đặt tay lên má tôi. Tôi cảm thấy toàn thân bà run rẩy, nhưng bà vẫn đặt nguyên bàn tay ở đó, và tôi lại thấy những giọt lệ xuất hiện trong mắt bà.
“Tội nghiệp các em,” bà nhắc lại, hầu như chỉ thì thầm. Rồi bà quay lưng bước vào nhà.
Trên đường về chúng tôi hầu như không nói gì đến cuộc gặp vừa rồi với cô Emily và Madame. Có chăng chúng tôi cũng chỉ nói về những điều chẳng quan trọng mấy, như chúng tôi thấy họ già đi bao nhiêu, hoặc về thứ này thứ nọ trong nhà họ.
Tôi chỉ chọn đi những con đường tối nhất mà tôi biết, nơi chỉ có ánh đèn pha của chúng tôi chọc thủng màn đêm. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng gặp ánh đèn pha xe khác, những khi đó tôi có cảm giác như chúng thuộc về những người chăm sóc khác, họ đang lái xe về nhà một mình hoặc có thể cùng một người hiến ngồi bên cạnh, giống như tôi. Dĩ nhiên tôi nhận ra rằng những người kia, họ cũng dùng những con đường này; nhưng đêm đó, tôi cảm thấy dường như những con đường phụ tối tăm kia của đất nước này chỉ tồn tại cho những kẻ như chúng tôi, trong khi các xa lộ lớn đèn điện sáng trưng với những bảng quảng cáo đồ sộ và những quán cà phê thượng hạng thì dành cho tất cả những người khác. Tôi không biết liệu Tommy có nghĩ điều gì tương tự vậy không. Hẳn là có, bởi có một lúc anh nhận xét:
“Kath, em đúng là biết toàn những con đường kỳ khôi thật.”
Anh vừa nói vậy vừa bật cười khẽ, nhưng rồi ngay lập tức anh dường như lại chìm vào trầm tư. Rồi trong khi chúng tôi đi dọc một lối mòn đặc biệt tối ở đằng sau một nơi chẳng biết là nơi nào thì bỗng anh nói:
“Anh nghĩ cô Lucy nói đúng. Không phải cô Emily.”
Tôi không nhớ khi đó mình có nói gì đáp lại không. Nếu tôi có nói gì đi nữa, chắc chắn đó cũng không phải một điều gì sâu sắc lắm. Nhưng chính khi đó tôi mới lần đầu tiên nhận ra nó, một cái gì đó trong giọng anh, hay có thể trong cung cách của anh, một cái gì đó làm rung những chiếc chuông báo động ở xa xăm. Tôi nhớ khi đó mình đã rời mắt khỏi con đường ngoằn ngoèo mà liếc sang anh, nhưng anh vẫn ngồi đó trầm lặng, nhìn thẳng ra đằng trước, vào màn đêm.
Vài phút sau đột ngột anh nói: “Kath này, mình dừng chút được không? Anh xin lỗi, anh cần ra ngoài một chút.”
Nghĩ rằng anh lại bị say xe, tôi hầu như đỗ xe lại ngay lập tức, va mạnh vào một bờ giậu. Nơi này tuyệt không có một ánh đèn, và thậm chí dù đèn xe chúng tôi vẫn mở, tôi cứ lo ngay ngáy nhỡ ra có chiếc xe nào ngoặt chỗ đường vòng mà va phải chúng tôi. Chính vì vậy mà khi Tommy ra khỏi xe và biến mất vào bóng tối, tôi không đi cùng anh. Lại nữa, trong cung cách của anh ra khỏi xe có cái gì đó đầy chủ định, cho tôi hiểu rằng dù đang cảm thấy khó ở, anh vẫn muốn tự mình xoay xở lấy. Dù sao thì đó là lý do để tôi vẫn ở lại trong xe, và đang tự hỏi không biết có nên dịch xe lên đồi một chút nữa không thì tôi nghe tiếng thét đầu tiên.
Đầu tiên thậm chí tôi không nghĩ đó là anh ấy thét, mà có kẻ điên khùng nào đó đang nấp trong các bụi cây. Tôi vừa mới ra khỏi xe thì lại nghe tiếng thét thứ hai rồi tiếng thét thứ ba, đến khi đó thì tôi nhận ra chính là Tommy thét, mặc dù không phải vì vậy mà tôi bớt phần luống cuống. Trên thực tế, trong một khoảnh khắc, có lẽ tôi đã gần như hoảng loạn, vì chịu không biết Tommy đang ở đâu. Tôi hầu như chẳng thấy gì, và khi cố đi về phía phát ra tiếng thét, tôi bị một bụi cây dày không thể vượt qua ngăn lại. Rồi tôi thấy một lối mở để qua, và bước ngang qua một cái rãnh, tôi đến gần một hàng rào. Tôi cố trèo qua hàng rào rồi đặt chân xuống mặt bùn ướt nhão.
Giờ tôi thấy quang cảnh xung quanh rõ hơn nhiều. Tôi đang ở trên một cánh đồng, và tôi thấy ánh đèn của một ngôi làng nào đó xa trong thung lũng. Gió ở đây thật mạnh, một cơn gió tạt ào ào vào tôi dữ dội đến nỗi tôi phải vươn tay bám lấy cọc rào. Trăng chưa tròn hẳn nhưng cũng đủ sáng, nên tôi thấy khá rõ, ở cách đó không xa lắm, gần nơi cánh đồng bắt đầu đổ xuống, hình dáng Tommy đang nổi cơn thịnh nộ, gào thét, vung tay đá chân loạn xạ.
Tôi cố chạy đến với anh, nhưng bùn níu chân tôi xuống. Bùn cũng cản trở cả anh, bởi vì có lúc, khi vung chân lên đá, anh trượt và ngã lăn vào bóng tối, tôi không nhìn thấy nữa. Song những lời chửi thề chẳng ra đầu ra đũa vẫn tuôn ra không ngừng, nên ngay lúc anh gượng đứng dậy được thì tôi cũng đến được chỗ anh. Tôi thoáng thấy khuôn mặt anh dưới ánh trăng, bùn đóng bánh và méo xệch vì cuồng nộ, rồi tôi túm lấy hai cánh tay anh đang vung tít lên mà ghì thật chặt. Anh cố giãy tôi ra, nhưng tôi vẫn ghì chặt, cho tới khi anh không la hét nữa và tôi cảm thấy anh không định vùng vẫy nữa. Rồi tôi nhận ra anh cũng đã choàng tay ôm lấy tôi. Và chúng tôi cứ đứng như thế, trên đỉnh cánh đồng kia, lâu tưởng đến hàng thế kỷ, không nói gì hết, chỉ ôm nhau, trong khi gió cứ quật tơi bời vào chúng tôi, giật đùng đùng quần áo chúng tôi, và trong một khoảnh khắc, có cảm giác như chúng tôi ôm nhau như thế bởi đó là cách duy nhất để chúng tôi không bị gió cuốn phăng vào đêm tối.
Khi rốt cuộc chúng tôi cũng rời nhau ra, anh lẩm bẩm: “Anh xin lỗi, Kath.” Rồi anh bật một tiếng cười yếu ớt và nói thêm: “Cũng may là trong cánh đồng này không có bò. Chứ không thì chúng nó đã sợ xanh mật.”
Tôi biết anh đang cố hết sức để làm tôi yên lòng rằng giờ anh đã hoàn toàn ổn, nhưng trong ngực anh tiếng thở vẫn nặng nề và chân anh vẫn run run. Chúng tôi cùng đi trở lại chỗ xe, cố không trượt ngã.
“Anh hôi như phân bò ấy,” cuối cùng tôi nói.
“Lạy Chúa tôi, Kath. Làm sao anh giải thích chuyện này với người ta đây? Đến nước này thì chúng mình phải lẻn vào cửa sau mất.”
“Anh vẫn phải ký tên vào sổ kia mà.”
“Trời ơi là trời,” anh nói, rồi lại bật cười.
Tôi tìm thấy ít giẻ rách trong xe và chúng tôi lau bớt những chỗ bùn dính bê bết nhất. Nhưng trong khi tìm giẻ, tôi đã lấy từ chỗ để hành lý sau xe ra chiếc túi thể thao đựng các bức tranh thú vật của anh, và khi chúng tôi lại khởi hành, tôi để ý thấy Tommy cầm luôn cái túi vào xe.
Chúng tôi lái xe một hồi, không nói gì nhiều, cái túi đặt trong lòng anh. Tôi cứ đợi anh nói gì đó về những bức tranh: thậm chí tôi còn nảy ra ý nghĩ rằng anh lại đang sắp nổi cơn tam bành lần nữa, đó là khi anh vứt hết các bức tranh ra ngoài cửa sổ xe. Nhưng anh vừa nắm chặt cái túi bằng cả hai tay như thể muốn che chở nó vừa nhìn đăm đăm vào con đường tối mịt cứ trải ra trước mặt chúng tôi. Sau một lúc im lặng dài, anh nói:
“Anh rất tiếc vì chuyện vừa rồi, Kath ạ. Anh là một thằng ngốc, đúng là thằng ngốc.” Rồi anh nói thêm: “Em đang nghĩ gì vậy Kath?”
“Em đang nghĩ,” tôi nói, “về chuyện hồi đó, ở Hailsham, hồi anh còn hay nổi khùng lên như vậy, bọn chúng em không hiểu nổi tại sao. Bọn em không hiểu nổi sao anh lại có thể đâm ra như vậy. Và em có ý này, chỉ là ý nghĩ thôi. Em đang nghĩ có lẽ lý do khiến anh thường như vậy là vì ở mức độ nào đó anh đã biết.”
Tommy nghĩ một hồi rồi lắc đầu. “Đừng nghĩ vậy Kath. Không, bao giờ cũng chỉ tại anh thôi. Tại anh là thằng ngốc. Chỉ có vậy thôi.” Rồi một thoáng sau, anh bật cười nhỏ mà nói: “Nhưng ý đó cũng hay đấy. Có lẽ đúng là anh biết thật, ở đâu đó sâu bên trong. Biết cái gì đó mà bọn các em không biết.”