Rồng Đỏ

Chương 10
Trước
image
Chương 11
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

Chuyến bay từ Washington đến Birmingham trống đến nửa số chỗ. Graham chọn một ghế sát cửa sổ không có ai ngồi cạnh.

Anh từ chối món sandwich cũ mèm được cô tiếp viên dọn ra rồi đặt hồ sơ vụ Jacobi lên bàn mâm. Ngoài bìa trước anh đã liệt kê ra những điểm tương đồng giữa hai vụ nhà Jacobi và nhà Leeds.

Cả hai cặp vợ chồng đều xấp xỉ tứ tuần, đều có con – hai trai một gái. Edward Jacobi có một con trai khác, từ cuộc hôn nhân trước, đang học đại học ở xa khi gia đình cậu ta bị sát hại.

Cả hai bố mẹ trong mỗi vụ đều có bằng đại học và hai gia đình đều sống trong ngôi nhà hai tầng tại những khu ngoại ô dễ chịu. Bà Jacobi lẫn bà Leeds đều là những phụ nữ quyến rũ. Hai gia đình sở hữu vài loại thẻ tín dụng giống nhau và cùng đăng ký vài loại tạp chí phổ thông.

Các điểm tương đồng đến đây là chấm dứt. Charles Leeds là luật sư thuế trong khi Edward Jacobi là kỹ sư đồng thời làm nghề luyện kim.

Gia đình ở Atlanta theo đạo Tin Lành; nhà Jacobi là dân Công giáo. Gia đình Leeds sống cả đời ở Atlanta, trong khi nhà Jacobi chỉ mới sống tại Birmingham ba tháng, mới chuyển đến từ Detroit.

Hai chữ “ngẫu nhiên” tí tách vang lên trong đầu Graham như vòi rượu nhỏ giọt. “Một sự lựa chọn nạn nhân ngẫu nhiên”, “không động cơ cụ thể” – báo chí sử dụng các cụm từ này trong khi mấy nhân viên điều tra thì khạc ra chúng trong cơn tức tối phẫn nộ trong phòng triển khai của đội trọng án.

“Ngẫu nhiên” là không chính xác. Graham biết rằng những kẻ giết người hàng loạt không lựa chọn nạn nhân một cách ngẫu nhiên.

Kẻ đã sát hại gia đình Jacobi và Leeds nhìn thấy điều gì đấy trong hai gia đình này, điều đó thu hút hắn rồi thúc đẩy hắn ra tay. Có thể hắn quen biết hai gia đình này – Graham hy vọng thế – hoặc có thể chẳng quen biết gì cả. Nhưng Graham chắc chắn rằng tên sát nhân đã từng gặp họ một lúc nào đó trước khi hắn giết hại họ. Hắn đã chọn họ vì một điều gì đấy trong họ đã khơi gợi hắn, và hai người phụ nữ là tâm điểm của điều này. Điều ấy là gì nhỉ?

Cũng có vài điểm khác nhau trong hai vụ án.

Edward Jacobi bị bắn khi ông ta đang đi xuống cầu thang cầm theo đèn pin – chắc hẳn là bị tiếng động đánh thức.

Bà Jacobi cùng các con bị bắn vào đầu, bà Leeds thì lại vào bụng. Trong các vụ nổ súng, vũ khí cùng là một khẩu súng ngắn tự động 9 li.

Dấu vết bùi nhùi thép từ bộ phận giảm thanh tự chế được tìm thấy trong các vết thương. Hộp đạn không lưu lại dấu vân tay nào.

Dao chỉ được dùng với Charles Leeds. Bác sĩ Princi tin rằng đấy là loại dao lưỡi mảnh vô cùng bén, có thể là dao lạng thịt.

Phương cách đột nhập cũng khác nhau; tại nhà gia đình Jacobi thì cửa hiên bị cạy mở, còn tại gia đình Leeds thì kính bị cắt.

Các ảnh chụp từ hiện trường ở Birmingham không cho thấy lượng máu tìm thấy tại nhà gia đình Leeds là bao nhiêu, nhưng có các vết máu cách mặt đất chừng bảy tấc trên các bức tường phòng ngủ. Như vậy tên sát nhân cũng có khán giả trong vụ Birmingham. Cảnh sát Bỉrmingham đã kiểm tra qua các xác chết tìm dấu tay, bao gồm cả dấu móng tay, nhưng không tìm được gì. Việc an táng trong tháng hè ở Birmingham sẽ tiêu hủy bất cứ dấu vân tay nào kiểu như dấu vân tìm thấy trên xác một trong mấy đứa trẻ nhà Leeds.

Cả hai vụ đều có cùng loại tóc vàng hoe, cùng loại nước bọt, cùng tinh dịch.

Graham dựa bức ảnh của hai gia đình đang tươi cười lên lưng ghế trước mặt mình rồi nhìn chăm chú vào chúng một lúc lâu giữa bầu không khí im lặng ngột ngạt của máy bay.

Điều gì có thể đã đặc biệt thu hút tên sát nhân chứ? Graham rất muốn tin rằng yếu tố chung có tồn tại và rằng anh sẽ chóng tìm ra thôi.

Bằng không thì anh sẽ phải đi vào thêm nhiều nhà nữa để tìm thấy những gì mà Tiên Răng đã để lại cho mình.

Graham lấy thông tin đường đi từ viên cảnh sát hiện trường Birmingham rồi thông báo đến với cảnh sát qua điện thoại từ sân bay rằng anh đã đến. Chiếc xe nhỏ gọn mà anh thuê bắn nước từ ống thông khí của bộ phần điều hòa vào hai tay lẫn mặt anh.

Điểm dừng đầu tiên của anh là văn phòng địa ốc Geehan trên đại lộ Dennison.

Geehan, cao và hói, vội vội vàng vàng đi băng qua thảm sàn xanh ngọc đến gặp Graham. Nụ cười của ông ta tắt ngay khi Graham chìa chứng minh ra rồi hỏi chìa khóa vào nhà gia đình Jacobi.

“Hôm nay ngoài đó có cảnh sát mặc đồng phục nào không thế?” ông ta hỏi, tay sờ sờ đầu.

“Tôi không biết.”

“Cầu trời là không có, chiều nay tôi có hai cuộc hẹn cho coi nhà. Căn nhà dễ thương lắm. Người ta mà thấy cảnh sát thì sẽ quên căn nhà luôn. Thứ Năm tuần rồi tôi có một cặp vợ chồng từ Duluth, dân nghỉ hưu rủng rỉnh tiền rất muốn chuyển đến vùng Vành đai Mặt trời (khu vực băng ngang miền Tây và Tây Nam Hoa Kỳ). Tôi đã thỏa thuận với họ đến nước chót rồi đấy – bắt đầu bàn đến thủ tục thế chấp – trời ạ tay này có thể đặt cọc trước một phần ba ấy chứ, thế rồi một chiếc xe tuần tra trờ tới và cảnh sát đi vào. Vợ chồng nọ hỏi họ vài ba câu, thế là trời ơi, họ nhận được cơ man nào là câu trả lời. Mấy tay cảnh sát mẫn cán ấy làm nguyên một tua hướng dẫn – xác ai nằm ở đâu. Thế là “Chào nhé, Geehan, chúng tôi rất cảm kích công sức của anh”. Tôi có chỉ cho họ xem chúng tôi đã sửa chữa căn nhà lại cho an toàn đến thế nào nhưng họ chẳng chịu nghe. Thế là xong, họ bước thấp bước cao bỏ đi trên nền sỏi, leo trở lại chiếc Cadillac De Ville.”

“Có người đàn ông độc thân nào yêu cầu được xem qua nhà không?”

“Không thấy ai hỏi tôi. Căn nhà này được nhiều văn phòng rao bán lắm. Nhưng tôi không nghĩ là có đâu. Cảnh sát không cho phép chúng tôi bắt tay vào sơn lại cho đến khi, chẳng biết nữa, chúng tôi mới sơn xong nội thất từ hôm thứ Ba rồi. Tốn đến hai lớp sơn nội thất Latex đấy, có chỗ cần đến ba lớp ấy chứ. Bọn tôi vẫn còn đang sửa sang bên ngoài. Sẽ là một căn trưng bày đúng nghĩa đây.”

“Làm sao các anh có thể bán căn nhà đó được trước khi người ta hoàn tất thủ tục thừa kế chứ?”

“Tôi không thể bán dứt điểm cho đến khi nào thủ tục đó hoàn tất, nhưng thế không có nghĩa là tôi không được phép chuẩn bị sẵn sàng. Người ta có thể dọn vào ở sau khi ký thỏa thuận khung. Tôi phải đi làm việc đây. Một đồng nghiệp của tôi đang vay thế chấp chính khoản tiền dự kiến bán nhà đó và cái lãi suất ấy vẫn tính từng ngày từng đêm, kể cả khi anh đang ngủ.”

“Ai là người thi hành di chúc cho ông Jacobi?”

“Byron Metcali, công ty Metcali và Bames. Anh nghĩ anh sẽ nán lại ngôi nhà đấy trong bao lâu vậy?”

“Tôi không biết. Cho đến khi tôi xong việc.”

“Anh có thể để chìa khóa lại hòm thư nhà cũng được. Anh không cần phải ghé lại đây đâu”

Graham có cảm giác vô vị về một con đường mòn lạnh lẽo khi anh chạy xe đến nhà Jacobi. Ngôi nhà nằm ngoài rìa vùng nội đô, trong khu vực mới được sáp nhập. Anh dừng xe ngoài quốc lộ một lần để xem lại bản đồ trước khi tìm ra được ngã rẽ vào một đường nhánh rải nhựa.

Đã hơn một tháng kể từ ngày họ bị sát hại. Một tháng ấy anh đã làm gì nhỉ? Lắp động cơ diesel vào thân tàu Rybovich dài 20 mét, ra hiệu cho Ariaga trên cần cẩu hạ xuống thêm một phân. Chiều muộn Molly ghé đến rồi anh cùng Molly và Ariaga ngồi dưới chái hiên vải bạt trên buồng lái của con tàu chưa hoàn thiện để ăn tôm to do Molly mang đến và uống bia Dos Equis ướp lạnh. Ariaga giảng giải cách hiệu quả nhất để rửa tôm tích, vẽ những hình ngoằn ngoèo lên mạt cưa trên boong tàu, và ánh mặt trời, vỡ òa khi đập vào mặt nước, nhảy nhót trên thân dưới của mấy con mòng biển đang lượn lờng.

Nước từ máy điều hòa bắn lên mặt trước áo sơ mi của Graham. Lúc này anh đang ở Birmingham và chẳng có cả tôm lẫn mòng biển. Anh đang lái xe, bên phải anh là đồng cỏ cùng những khoảng đất rừng với lũ dê và ngựa, còn bên trái anh là Stonebridge, khu dân cư lâu đời với vài ngôi nhà duyên dáng cùng một số căn nhà của người giàu.

Anh nhìn thấy biển báo của tay địa ốc từ cả trăm mét trước khi anh lái đến nơi. Nhà của gia đình Jacobi là căn duy nhất phía bên phải con đường. Nhựa cây hồ đào ven đường khiến cho lớp sỏi trở nên dinh dính, chúng kêu lạo xạo bên trong chắn bùn của xe. Một người thợ mộc đứng trên thang đang lắp thanh chắn cửa sổ. Anh này giơ tay chào Graham khi anh đi quanh nhà.

Hàng hiên lát đá bên hông nhà rợp bóng một cây sồi lớn. Vào ban đêm cây này cũng sẽ chắn hết cả ánh đèn pha từ sân hông nhà. Đây là nơi Tiên Răng đã đột nhập vào, qua cửa trượt bằng kính. Cửa đã được thay cánh mới, phần khung nhôm vẫn còn sáng lóa mang nhãn dán của nhà sản xuất. Chắn ngoài cửa trượt là cổng an toàn làm từ sắt uốn. Cửa vào tầng hầm cũng mới – thép bóng mờ chốt bằng khóa chết. Mấy bộ phận của một bồn tắm nước nóng còn nằm trong thùng gỗ thưa đặt trên sàn lát đá.

Graham đi vào nhà. Mặt bằng trống trơn và không khí chết chóc. Tiếng bước chân anh dội vang trong căn nhà trống toang hoác.

Những tấm gương mới trong phòng tắm chưa từng phản chiếu gương mặt những người trong gia đình Jacobi hay của tên sát nhân. Trên mỗi tấm gương là một đốm trắng xù xì nơi mác giá bị bóc đi. Một tấm rèm vải được gấp gọn đặt nơi một góc căn phòng ngủ chính. Graham ngồi lên đấy thật lâu cho đến khi ánh mặt trời xuyên qua mấy cửa sổ không rèm dịch chuyển một đoạn bằng chiều ngang một tấm ván sang phía bên kia phòng

Nơi đây chẳng có gì. Chẳng còn gì nữa.

Nếu như anh đến đây ngay sau khi gia đình Jacobi bị sát hại, liệu có thể gia đình Leeds vẫn còn sống chăng? Graham băn khoăn. Anh cân nhắc trọng lượng của gánh nặng này.

Gánh nặng ấy chẳng chịu nhấc đi khi anh đã ra khỏi nhà đến đứng dưới bầu trời.

Graham đứng dưới bóng râm của một cây hồ đào, vai so lại, hai tay đút túi, nhìn xuống lối chạy xe dài dẫn ra con lộ đi ngang qua nhà gia đình Jacobi.

Tiên Răng đi đến nhà gia đình Jacobi bằng cách nào? Hắn phải lái xe. Hắn đã đậu xe ở đâu? Lối chạy xe vào nhà rải sỏi thì quá ồn ào cho một chuyến ghé thăm lúc nửa đêm, Graham nghĩ. Cảnh sát Birmingham lại không đồng ý thế.

Anh đi bộ dọc theo lối xe vào nhà để ra đến vệ đường, con đường rải nhựa ven hai bên là đường mương chạy dài hút tầm mắt. Nếu mặt đất cứng và khô thì hoàn toàn có khả năng chạy xe băng qua mương để giấu vào bụi cây ven đường phía nhà Jacobi.

Đối diện với nhà Jacobi bên kia đường là lối độc đạo vào Stonebridge. Bảng chỉ dẫn thông báo rằng Stonebridge có đội tuần tra riêng. Ở trong ấy thì một chiếc xe lạ sẽ bị chú ý ngay. Cả một người đi bộ muộn về đêm cũng thế. Ở Stonebridge đậu xe miễn phí cả ngày.

Graham quay trở vào nhà, ngạc nhiên tìm thấy một chiếc điện thoại còn hoạt động. Anh gọi cho Nha Khí tượng và được biết rằng lượng nước mưa vào ngày trước hôm gia đình Jacobi bị sát hại là trên bảy mươi mi li mét. Nghĩa là khi ấy con mương đầy nước. Tiên Răng không giấu xe mình bên vệ đường rải nhựa rồi.

Một con ngựa trong trảng cỏ bên cạnh vườn nhà đi thong dong theo bước Graham khi anh bước dọc dãy bờ rào sơn trắng về phía phần sau căn nhà. Anh cho con ngựa một viên kẹo ngậm rồi để nó lại đó ngay góc đường khi anh quành theo dãy hàng rào phía sau dãy nhà phụ.

Anh dừng lại khi trông thấy phần mặt đất bị cày xới nơi mấy đứa trẻ nhà Jacobi đã chôn con mèo. Lúc ở đồn cảnh sát Atlanta cùng Springfield, anh mường tượng dãy nhà phụ này sơn trắng. Thực ra lại là màu xanh lục đậm.

Mấy đứa trẻ đã bọc con mèo lại trong khăn lau chén rồi chôn nó trong hộp đựng giày cùng một bông hoa cài giữa móng chân mèo.

Graham chống cánh tay lên hàng rào rồi gục trán lên tay.

Lễ an táng thú cưng, một nghi lễ trang nghiêm thời con nít. Bố mẹ trở vào trong nhà, ngượng không muốn đọc kinh cầu. Trẻ con đứa này nhìn đứa kia, khám phá ra vài trạng thái thần kinh mới ở nơi sự mất mát vừa xuyên qua. Một đứa cúi đầu xuống, rồi cả đám đều cúi, cây xẻng xúc đất cao hơn tất cả bọn chúng. Sau đấy là một cuộc thảo luận xem con mèo có được ở trên thiên đàng cùng với Chúa cha và Chúa con hay không, và đám trẻ con sẽ không lớn tiếng la hét gì trong một lúc.

Một khả năng chắc chắn bỗng nảy ra với Graham khi anh đứng đó, mặt trời cháy rát sau gáy: Tiên Răng đã giết con mèo, chắc chắn hắn cũng đã đứng xem mấy đứa trẻ chôn con mèo ấy.

Hắn phải chứng kiến nếu có khả năng được chứng kiến. Hắn không đi tới đây hai lần, một lần để giết con mèo và lần thứ hai để giết gia đình Jacobi. Hắn đến, giết con mèo, rồi chờ cho mấy đứa trẻ đi tìm con mèo ấy.

Chẳng có cách nào xác định được chính xác mấy đứa trẻ tìm ra con mèo ở đâu. Cảnh sát đã không tìm được bất cứ ai từng nói chuyện với gia đình Jacobi chiều hôm ấy, chừng mười tiếng đồng hồ trước khi họ bị sát hại.

Tiên Răng đã đến đây bằng cách nào và chờ đợi tại đâu?

Thảm bụi cây bắt đầu từ sau hàng rào phía sau, trải thẳng ba mươi mét đến tận hàng cây. Graham lôi tấm bản đồ nhàu nhĩ ra khỏi túi quân sau rồi trải ra trên bờ rào. Bản đồ chỉ ra một dải thông rừng che kín sâu đến hơn bốn trăm mét chạy ngang qua phía sau khu đất nhà gia đình Jacobi rồi tiếp tục lan ra cả hai đầu.

Bên ngoài cánh rừng ấy, bọc lấy mạn Nam, là một con đường lằn ranh chạy song song với con đường trước mặt nhà Jacobi.

Graham chạy xe ngược từ căn nhà quay trở ra xa lộ, dùng đồng hồ xe đo khoảng cách. Anh chạy dọc xa lộ theo hướng Nam rồi rẽ vào con đường lằn ranh mà anh nhìn thấy trên bản đồ. Lại tiếp tục đo đạc, anh chầm chậm chạy dọc con đường này cho đến khi đồng hồ trên xe cho thấy anh đang ở phía sau nhà gia đình Jacobi bên kia cánh rừng.

Tại đây phần vỉa hè chấm dứt ngay tại khu dự án nhà ở cho người có thu nhập thấp, khu này quá mới nên không có mặt trong bản đồ. Anh cho xe vào bãi đậu. Xe đa số là cũ mèm xập xệ. Có hai chiếc tháo hết cả bánh.

Mấy đứa trẻ da đen chơi bóng rổ trên sân trần quanh một cột rổ không lưới. Graham ngồi tựa trên thanh cản bùn theo dõi trận đấu một đỗi.

Anh những muốn cởi phăng áo khoác, nhưng anh biết khẩu súng lục cùng chiếc máy ảnh mỏng dẹt nơi thắt lưng mình sẽ thu hút chú ý. Anh luôn thấy ngượng nghịu kỳ cục khi người ta nhìn vào súng của anh.

Bên đội mặc áo có tám cầu thủ. Đội ở trần là mười một, tất cả cùng tham gia. Trọng tài can thiệp bằng lời.

Một thằng nhóc nhỏ con đội ở trần, bị đè bẹp trong một pha tranh bóng, tức tối đi sầm sập về nhà. Nó quay lại, được gia cố thêm một chiếc bánh quy, rồi lại nhào vào trận bóng.

Tiếng reo hò cộng tiếng bóng nện thùm thụp làm tinh thần Graham được nâng cao.

Một rổ cầu gôn, một quả bóng. Graham chợt nhận ra gia đình Leeds có biết bao nhiêu là đồ. Cả gia đình Jacobi nữa, theo như lời cảnh sát Birmingham khi họ loại trừ khả năng cướp bóc. Nào thuyền nào dụng cụ thể thao, đồ cắm trại, máy ảnh rồi súng rồi cần câu. Lại thêm một điểm chung mà hai gia đình này cùng có.

Rồi hết suy nghĩ về gia đình Leeds và Jacobi khi còn sống là đến suy nghĩ về việc họ có kết cục thế nào, khiến Graham không thể ngồi coi bóng rổ thêm nữa. Anh hít một hơi sâu rồi tiến về khu rừng tối bên kia đường.

Tầng cây thấp, rậm rạp ngoài rìa cánh rừng thông, mỏng dần khi Graham đi vào đến vùng tán rậm, anh xem xét qua loa đám lá thông.

Không khí nóng ấm tĩnh lặng. Chim giẻ cùi làm tổ trên mấy ngọn cây trước mặt réo lên báo trước rằng anh đang đến.

Mặt đất hơi thoải xuống đến một lòng suối khô mọc lác đác vài ngọn bách, nền đất sét đỏ in dấu chân chạy của chồn hương lẫn chuột đồng.

Lòng suối cũng có cả vài dấu chân người, một số là chân con nít. Tất cả đều hằn xuống tròn vạnh, đều đã in dấu từ trước đấy vài cơn mưa.

Qua bên kia lòng suối thì mặt đất lại cao lên, đổi thành loại đất mùn xám làm chỗ mọc cho đám dương xỉ bên dưới những cây thông.

Graham trèo ngược lên đồi trong cái nóng cho đến khi anh nhìn thấy được ánh sáng bên dưới rặng cây nơi bìa rừng.

Xen giữa các gốc cây, anh có thể nhìn thấy tầng trên nhà Jacobi.

Lại tầng rừng thấp, cao ngang đầu từ bìa rừng tới bờ rào phía sau nhà Jacobi. Graham lại băng qua khoảng ấy để đến đứng ngay hàng rào nhìn vào sân nhà.

Tên Tiên Răng chắc hẳn đã đậu xe tại khu nhà dự án rồi đi xuyên qua rừng cây đến thảm bụi thấp phía sau nhà. Hẳn hắn đã dụ con mèo ra bụi cây rồi bóp chết, vừa di chuyển trên hai đầu gối vừa giữ cái xác mèo mềm oặt bằng một tay, tay kia bám lên hàng rào. Graham có thể nhìn thấy con mèo trong không trung, chẳng bao giờ còn vặn mình để đáp xuống trên chân được nữa, thay vào đó rơi đập lưng đánh thịch xuống sân vườn.

Tiên Răng làm chuyện này giữa ban ngày – mấy đứa trẻ không thể nào tìm thấy con mèo rồi chôn nó vào ban đêm được. Và hắn phải chờ để chứng kiến bọn trẻ tìm ra con mèo. Hắn có đứng chờ hết cả ngày hôm ấy trong cái nóng nơi tầng rừng thấp hay không? Đứng tại hàng rào thì hắn sẽ bị nhìn thấy qua lan can. Để nhìn thấu được vào sân từ xa ngoài vùng bụi thấp kia thì hắn phải đứng đối mặt với các cửa sổ của căn nhà trong khi mặt trời thiêu đốt hắn. Rõ là hắn sẽ quay trở vào rừng thôi. Graham cũng làm vậy.

Cảnh sát Birmingham không ngốc. Graham có thể nhìn thấy nơi họ đã lùng sục qua vùng bụi thấp, lẽ đương nhiên là rà soát cả khu vực.

Nhưng đấy là trước khi con mèo được tìm thấy kìa. Lúc ấy họ đang tìm kiếm manh mối, những vật bị đánh rơi dấu vết – chứ không phải là điểm quan sát lợi thế.

Anh tiến vài mét vào rừng phía sau nhà gia đình Jacobi rồi đi đi lại lại dưới bóng râm loang lổ. Thoạt tiên anh lên đến vùng đất cao cho phép anh nhìn thấy một phần ngôi nhà, rồi anh đi xuống hàng cây.

Anh đã tìm kiếm được hơn một tiếng đồng hồ thì một lóa ánh sáng hắt lên từ dưới đất mới làm anh để ý. Anh mất dấu nó, rồi tìm lại được.

Là một miếng vòng nắp kéo trên lon nước ngọt bị vùi phân nửa trong đám lá bên dưới một cây đu, một trong vài cây đu giữa rừng thông.

Anh nhìn thấy nó từ khoảng cách hai mét rưỡi, trong vòng năm phút anh không tiến đến gần hơn mà rảo mắt khắp vùng đất quanh gốc cây.

Anh ngồi xổm xuống, vừa phủi đám lá cây trước mặt mình vừa nhấp nhổm nhảy bước một tiến tới cây ấy theo lối mình mở để tránh hủy đi bất cứ vết chân nào. Thật chậm rãi, anh dọn sạch đám lá quanh gốc cây. Không có dấu chân nào in dấu lên tấm thảm lá cây cả năm này.

Gần miếng vòng nhôm anh tìm thấy một lõi táo đã khô, bị kiến ăn gần sạch. Chim chóc đã mổ hết hạt táo. Anh săm soi mặt đất thêm mười phút nữa. Cuối cùng, anh ngồi phệt xuống đất, duỗi hai chân mỏi nhừ ra và tựa lưng vào thân cây.

Một đám ruồi nhuế bay vòng vòng dưới một cột ánh sáng mặt trời. Một con bướm đang dập dờn bên dưới một phiến lá.

Trên cành cây lớn bên trên đầu anh có một vết bùn sông màu đỏ hình đế giày.

Graham mắc áo khoác lên một nhánh cây và bắt đầu thận trọng leo lên phía cây bên kia, vừa leo vừa săm soi vòng quanh thân cây đến những cành bên trên vệt bùn từ giày. Lên đến 9 mét anh nhìn quanh thân cây và thấy nhà Jacobi cách đấy chừng 160 mét. Ở độ cao này ngôi nhà nhìn rất khác, màu mái ngói nổi bật hẳn lên. Anh có thể thấy rất rõ sân sau và cả vùng đất phía sau dãy nhà phụ. Một cái ống nhòm tương đối tốt sẽ dễ dàng trông rõ được cả nét biểu cảm trên mặt người từ khoảng cách này.

Graham có thể nghe thấy tiếng xe cộ văng vẳng, và xa kia là tiếng chó săn thỏ đang lùng mồi. Một con ve sầu bắt đầu cất tiếng rì rì như cưa máy điếc tai, nhấn chìm bao âm thanh còn lại.

Một cành cây lớn ngay trên đầu anh nói với thân cây tạo thành một góc vuông với nhà Jacobi. Anh đu người lên cho đến khi có thể nhìn thấy và rướn quanh thân cây để nhìn.

Sát ngay anh là một lon nước ngọt bị nhét giữa cành và gốc cây.

“Yêu quá,” Graham thì thầm vào vỏ cây. “Ôi Chúa nhân từ ôi, đúng rồi đấy. Lon ơi tới đây xem nào.”

Nhưng mà, có thể do một đứa trẻ bỏ lại cũng nên.

Anh leo lên cao hơn từ bên này thân cây, tì trên mấy cành nho nhỏ cũng khá nguy hiểm, rồi men vòng quanh cho tới khi anh có thể nhìn xuống được cành cây lớn kia.

Một mảng vỏ ngoài mặt trên của cành cây bị gọt nhẵn, để lộ ra mảng vỏ xanh bên trong bằng kích cỡ một lá bài tây. Nằm ngay chính giữa mảng xanh hình chữ nhật ấy, được khắc tận đến phần gỗ trắng, là thứ Graham nhìn thấy:

Chữ này được khắc tỉ mỉ sắc nét bằng loại dao rất bén. Không phải do con nít khắc.

Graham chụp hình khắc, cẩn thận canh chỉnh kiểu ảnh.

Tầm nhìn từ cành cây to này rất tốt và lại còn được cải thiện thêm: một nhánh cây nhỏ hơn từ cành cây bên trên đã bị cắt đi thành một cành cụt chĩa xuống. Nó đã bị tỉa đi cho thoáng tầm nhìn. Ở chỗ cắt, thớ gỗ bị nén lại và phần cuối cành hơi bị đè bẹt.

Graham tìm kiếm cành cây bị cắt. Nếu còn nằm trên mặt đất thì anh sẽ phải nhìn thấy. Kia rồi, xen giữa những nhành cây dưới kia, những chiếc lá nâu héo úa giữa một rừng lá xanh ngắt.

Phòng thí nghiệm sẽ phải cần đến cả hai mặt của vết chặt để so sánh độ xiên của gờ vết chặt. Thế có nghĩa là phải cầm cưa quay lại đây.

Graham chụp nhiều hình mẩu cụt. Vừa làm anh vừa luôn miệng tự lầm rầm.

Tao nghĩ là sau khi giết xong con mèo rồi quăng nó vào trong sân, anh bạn ạ, thì mày đã leo lên dây mà chờ. Tao nghĩ là mày theo dõi mấy đứa trẻ, giết thời gian bằng việc gọt đẽo, mơ mơ màng màng. Khi đêm đến mày nhìn thấy họ đi qua đi lại mấy khung cửa sổ sáng đèn rồi mày quan sát màn cửa buông xuống, rồi đèn đóm từng ngọn tắt đi. Rồi một lúc sau mày leo xuống lẻn vào xử họ. Phải không nào? Leo thẳng xuống đất từ một nhánh cây to với một cây đèn pin và dưới ánh trăng đang lên sáng quắc sẽ không khó khăn gì cho lắm.

Nhưng với Graham thì khó nhọc vô cùng. Anh chọc một que củi khô qua nắp vòng lon nước ngọt, nhẹ nhàng nhấc nó ra khỏi chạc ba thân cây rồi leo xuống, dùng răng cắn giữ cái que khi anh phải cần đến cả hai tay.

Quay trở lại khu nhà dự án, Graham thấy ai đó đã viết dòng chữ “Levon là thằng đần” lên lớp bụi bên ngoài xe anh. Chiều cao ngang tầm dòng chữ ấy cho thấy ngay cả những cư dân nhỏ tuổi nhất ở đây cũng thông thạo đọc viết lắm rồi.

Anh băn khoăn không rõ người ra đã viết gì lên xe của Tiên Răng.

Graham ngồi yên vài phút, ngước nhìn dãy cửa sổ. Hình như có chừng một trăm căn hộ. Có khả năng là ai đó sẽ nhớ ra một người lạ mặt da trắng trong bãi đậu xe lúc đêm khuya. Dù đã một tháng rồi nhưng cũng đáng để thử lắm. Để hỏi từng cư dân một, và làm thật nhanh, thì anh sẽ phải cần đến sự trợ giúp của cảnh sát Birmingham.

Anh đấu tranh với mong muốn được gửi lon nước ngọt thẳng đến Jimmy Price ở Washington. Anh cần phải nhờ đến nhân lực của cảnh sát Birmingham. Tốt hơn là anh nên đưa cho họ những gì anh có. Việc lấy dấu vân tay trên lon nước là chuyện nhỏ. Nhưng có tìm lấy vân tay khi đã bị mồ hôi axit bao phủ lại là chuyện khác. Price vẫn có thể làm được sau khi phía Birmingham đã lấy vân tay, miễn là lon nước không bị xử lý qua tay để trần. Tốt hơn là đưa cho phía cảnh sát đi. Anh biết bộ phận Hồ sơ lưu trữ của F.B.I. sẽ lao vào phần chữ khắc như con cầy mangut bị dại. Hình chụp chữ ấy thì gửi cho mọi người, cũng không mất mát gì.

Anh gọi cho đội trọng án Birmingham từ nhà Jacobi. Các điều tra viên đến nơi ngay lúc tay môi giới địa ốc Geehan đang lùa mấy người mua triển vọng của mình vào.

Trước
image
Chương 11
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!