Rồng Đỏ

Chương 14
Trước
image
Chương 15
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

Cổng kiểm soát tại Ga tàu điện Trung tâm Washington bật trả lại Graham tấm thẻ đi tàu và anh bước ra ngoài trời chiều nóng bức mang theo túi hành lý xách tay.

Tòa nhà J. Edgar Hoover trông như một cái chuồng bê tông cỡ bự bên trên lớp không khí nhòa đi vì hơi nóng của phố 10. F.B.I. đã rục rịch chuyển trụ sở từ hồi Graham rồi Washington. Anh chưa từng làm việc tại đây.

Crawford gặp anh tại bàn gác bên ngoài lối xe vào dưới tầng hầm để dùng thẻ ngành của mình bảo đảm thêm cho những giấy tờ chứng minh được cấp phát vội vã của Graham. Graham trông mệt mỏi, anh hết cả kiên nhẫn với việc làm thủ tục vào cổng. Crawford băn khoăn không rõ anh cảm thấy thế nào khi biết rằng kẻ sát nhân đang nghĩ về mình.

Graham được cấp cho một thẻ mã từ như cái gắn trên áo gi lê của Crawford. Anh nhét thẻ vào cổng rồi đi vào trong dãy hành lang trắng dài tít. Crawford xách túi hành lý cho anh.

“Tôi quên không bảo Sarah điều một chiếc xe cho cậu.”

“Có lẽ thế này lại nhanh hơn. Anh trả bức thư lại cho Lecter an toàn chứ?”

“Ừ,” Crawford đáp. “Tôi vừa quay về thôi. Bọn tôi đổ nước tràn đầy sàn hành lang. Ngụy tạo một đường ống nước bị vỡ trong khi điện thì cúp. Chúng tôi cho Simmons – anh ta giờ là trợ lý s. A.c. bang Baltimore rồi đấy nhé – chúng tôi cho anh ta lau dọn trong lúc Lecter được mang trở lại xà lim của hắn. Simmons nghĩ là hắn tin.”

“Suốt chuyến bay tôi cứ băn khoăn liệu có phải chính Lecter viết lá thư đó không.”

“Tôi cũng thắc mắc như vậy cho đến khi nhìn thấy lá thư. Dấu cắn trên nền giấy khớp với mấy dấu răng trên những người phụ nữ. Với lại đấy là bút bi, mà Lecter làm gì có bút bi. Kẻ đã viết lá thư này từng đọc tờ Tattler trong khi Lecter không có tờ Tattler nào. Rankin và Willingham soát tung xà lim. Làm rất ngọt, nhưng chẳng tìm được gì. Trước đó họ chụp lại ảnh để trả mọi thứ về đúng chỗ cũ. Rồi nhân viên vệ sinh vào làm việc như mọi khi.”

“Thế anh nghĩ sao?”

“Nếu để dùng làm bằng chứng nhận dạng, thì lá thư này chẳng ích lợi gì cả,” Crawford đáp. “chúng ta phải tìm cách nào đó khiến việc liên lạc này đem lại kết quả cho chúng ta, nhưng mà cách nào thì tôi chịu chưa biết được. chúng ta sẽ có được phần báo cáo kết quả còn lại từ phòng thí nghiệm trong vài phút nữa.”

“Anh đã cho theo dõi thư từ cùng điện thoại từ bệnh viện chưa?”

“Đã thông qua lệnh cho phép truy nguồn và thâu lại bất cứ lúc nào Lecter gọi điện. Chiều thứ Bảy hắn có gọi đi một cuộc. Hắn bảo với Chilton là sẽ gọi cho luật sư của hắn. Đấy là một cuộc gọi đường dài chết tiệt qua tổng đài đến số tổng đài nên tôi không thể biết rõ.”

“Luật sư hắn nói gì?”

“Chẳng gì cả. Chúng ta đã có hẳn một đường dây nối với tổng đài bệnh viện, riêng cho Lecter, từ giờ trở đi, để cuộc gọi không thoát khỏi tầm kiểm soát của chúng ta nữa. Chúng ta sẽ can thiệp đến thư từ của hắn cả gửi đi lẫn gửi đến bắt đầu từ đợt giao thư tiếp theo. Không có vấn đề gì với việc xin trát tòa, tạ ơn Chúa.”

Crawford tì bụng vào cửa rồi nhét thẻ gắn trên áo gi lê vào khe khóa. “Văn phòng mới của tôi. Mời vào. Tay trang trí đã tận dụng ít sơn còn thừa từ cái chiến hạm anh ta đang làm. Bức thư đây này. Bản chụp đúng nguyên như kích cỡ thật.”

Graham đọc qua hai lần. Việc trông thấy những con chữ loằng ngoằng viết lên tên mình đã gợi lên một tiếng chuông the thé trong đầu anh.

“Bên thư viện xác nhận rằng Tattler là tờ duy nhất có đăng câu chuyện về Lecter và cậu” Crawford vừa nói vừa pha cho mình một viên sủi Alka-Seltzer. “Muốn một viên không? Có ích cho cậu đấy. Bài này được lên khuôn vào tối thứ Hai tuần trước. Báo ra sạp toàn quốc vào thứ Ba – một số nơi thì ra vào thứ Tư – như Alaska và Maine và những vùng tương tự. Tiên Răng có một tờ – không thể nào mua trước thứ Ba được. Hắn đọc, rồi viết cho Lecter. Rankin và Willingham vẫn đang sàng lọc rác của bệnh viện để tìm phong bì. Phù, việc ngán lắm. Ở Chesapeake người ta không tách riêng giấy tờ khỏi tã lót.

“Rồi, như vậy ít nhất phải đến thứ Tư Lecter mới nhận được thư từ Tiên Răng. Hắn xé đi phần về cách hồi âm và gạch xóa chọc thủng đi một chỗ ám chỉ trước đó – tôi không rõ tại sao hắn lại không xé phần đó đi luôn.”

“Vì nó nằm giữa đoạn văn đầy lời khen ngợi” Graham nói. “Hắn không thể phá hủy nó được. Đấy là lý do vì sao hắn đã không ném bỏ nguyên bức thư.” Anh chà chà đốt ngón tay lên thái dương.

“Bowman nghĩ rằng Lecter sẽ dùng tờ Tattler để trả lời cho Tiên Răng. Anh ta bảo chắc cơ cấu là thế. Cậu nghĩ hắn có trả lời vụ này không?”

“Chắc chắn rồi. Hắn thích trao đổi thư từ lắm mà. Bạn qua thư ở khắp nơi.”

“Nếu chúng dùng tờ Tattler, Lecter khó mà có đủ thời gian nhận được hồi đáp cho mình trên số in tối nay, ngay cả nếu hắn có gửi thư trả lời đến tờ báo trong cùng ngày hắn nhận được thư của Tiên Răng. Chester ở văn phòng Chicago đang xuống chỗ tờ Tattler để kiểm tra phần quảng cáo. Ngay lúc này đây nhà in đang in báo ra.”

“Chúa ơi làm ơn đừng khuấy động tờ Tattler lên chứ,” Graham bảo.

“Tay quản đốc phân xưởng tưởng Chester là một tên môi giới bất động sản đang muốn biết trước mọi thông tin rao bán trong mục quảng cáo. Hắn đang lén bán cho cậu ấy từng trang in thử, ra trang nào bán trang đó. Chúng ta sẽ lấy được mọi thứ, tất cả phần quảng cáo rao vặt, tung hỏa mù thôi. Thôi được rồi, cứ cho là chúng ta tìm ra cách Lecter hồi âm và chúng ta có thể tương kế tựu kế. Rồi chúng ta có thể giả mạo một thông điệp gửi cho Tiên Răng – nhưng sẽ phải nói gì đây? chúng ta vận dụng cách đấy thế nào?”

“Hiển nhiên là cố dụ hắn đi đến nơi nhận thư” Graham bảo. “Nhử hắn bằng thứ gì mà hắn muốn thấy. “Bằng chứng quan trọng” mà Lecter biết được nhờ nói chuyện với tôi. Một số sai lầm mà hắn đã phạm phải và chúng ta đang chờ hắn tái phạm.”

“Hắn có ngu mới chịu rơi vào bẫy.”

“Tôi biết chứ. Muốn nghe xem miếng mồi nào là chắc ăn nhất không?”

“Chẳng rõ là tôi có muốn nghe không nữa.”

“Lecter sẽ là miếng mồi ngon nhất đấy” Graham nói.

“Bẫy bằng cách nào chứ?”

“Gian nan lắm. Tôi biết. Chúng ta sẽ di dời hắn vào nhà tù liên bang – Chilton sẽ không chịu ngồi im tại Chesapeake nếu ta làm vậy đâu – rồi chúng ta sẽ giấu hắn trong vòng an ninh tối đa tại bệnh viện tâm thần ở Virginia. Chúng ta làm giả một vụ đào tẩu.”

“Trời đất.”

“Chúng ta gửi cho Tiên Răng một thông điệp trong tuần sau đó trên tờ Tattleir sau cuộc “đại tẩu thoát” ấy. Sẽ là Lecter đòi hẹn gặp.”

“Vì cớ gì mà có kẻ lại muốn gặp Lecter cơ chứ? Cho dù đấy là Tiên Răng đi nữa?”

“Để giết hắn, Jack ạ.” Graham đứng dậy. Không có cửa sổ nào để nhìn ra ngoài trong lúc anh nói. Anh đứng trước danh sách “Mười tội phạm truy nã gắt gao nhất” – vật trang trí tường duy nhất của Crawford. “Anh thấy đấy, Tiên Răng có thể hấp thu hắn bằng cách đó, nhận chìm hắn, biến thành thứ vĩ đại hơn chính hắn.”

“Cậu nghe có vẻ chắc ăn nhỉ.”

“Tôi không chắc. Ai mà chắc được? Những gì hắn nói trong bức thư là “Tôi có vài thứ rất muốn mời ông xem. Một ngày nào đó, có lẽ vậy, nếu điều kiện cho phép” Có lẽ đấy là một lời mời nghiêm túc. Tôi không cho rằng hắn nói chỉ vì phép lịch sự không thôi.”

“Có nghĩ hắn sẽ cho xem gì không? Các nạn nhân còn nguyên. Chẳng hao hụt gì ngoài một ít da và tóc, mà chắc là đã được – Bloom sẽ gọi là thế nào ấy nhỉ?”

“Tiêu hóa” Graham đáp. “Có trời mới biết hắn có gì. Tremont, còn nhớ trang phục của Tremont ở Spokane không? Trong lúc bị trói vào cáng cứu thương mà hắn vẫn hất cằm ra hiệu, vẫn cố phô trang phục ra cho cảnh sát Spokane nhìn thấy. Tôi không chắc Lecter sẽ lôi kéo được Tiên Răng, Jack à. Tôi cho đấy là cơ may cao nhất thôi.”

“Chúng ta sẽ có một trận gỉẫm đạp điên cuồng nếu người ta tưởng Lecter đã thoát mất. Báo chí sẽ bủa vây quát tháo chúng ta. ừ thì, có lẽ là cơ may cao nhất đấy, nhưng chúng ta phải để dành đến nước chót thôi.”

“Hắn chắc sẽ không đến gần chỗ để lại thư đâu, nhưng có lẽ sẽ đủ tò mò mà nhìn qua nơi bỏ thư xem Lecter có bán đứng hắn không. Liệu hắn có thể làm được từ xa không. Chúng ta có thể chọn một địa điểm mà chỉ có thể được quan sát từ vài chỗ cách xa đấy rồi khoanh vùng những điểm quan sát” Nghe thật kém thuyết phục ngay cả khi Graham đang nói ra.

“Bên Mật vụ có một nơi bố trí mà họ chưa bao giờ dùng đến. Họ sẽ để cho chúng ta sử dụng. Nhưng nếu hôm nay chúng ta không đăng quảng cáo thì sẽ phải đợi đến thứ Hai số báo tới mới được phát hành. Báo phát ra vào lúc năm giờ chỗ chúng ta. Như thế thì Chicago còn được thêm một tiếng mười lăm phút nữa để tìm ra mẩu quảng cáo của Lecter, nếu có.”

“Thế còn đơn đặt quảng cáo của Lecter thì sao, thứ mà hắn đã gửi cho tờ Tattler để đặt quảng cáo ấy, chúng ta có thể lấy được thứ ấy nhanh hơn không?”

“Phía Chicago chỉ đưa ra vài lời ướm ý chung chung cho tay quản đốc phân xưởng thôi” Crawford đáp. “Thư từ ở trong văn phòng của quản lý mục quảng cáo rao vặt. Họ bán tên và địa chỉ hồi báo cho những ai thu thập danh sách địa chỉ nhận ở đội ngũ chuyên đi bán sản phẩm cho những người cô đơn, bùa yêu, thuốc cường dương, kinh doanh thân xác, “làm quen với những cô gái châu Á xinh đẹp”, các khóa học phát triển nhân cách, đại loại là mấy thứ ấy.

“Chúng ta có thể viện đến nghĩa vụ công dân này nọ của tay quản lý mục quảng cáo để xem qua, yêu cầu anh ta giữ im lặng, nhưng tôi không muốn liều rồi để cho đám Tattler rình rập chúng ta mãi. Sẽ phải có trát tòa thì mới đi vào đấy tịch thu cái thư được. Tôi đang nghĩ đến việc ấy đây.”

“Nhưng nếu Chicago không tìm được gì thì chúng ta có thể rao một tin vặt cũng được mà. Nếu chúng ta sai về tờ Tattler thì ta cũng sẽ chẳng mất mát gì,” Graham nói.

“Và nếu chúng ta đúng rằng tờ Tattler là phương tiện trao đổi thông tin rồi chúng ta dựng lên một lời hồi âm dựa trên những gì chúng ta có trong bức thư này và làm hỏng bét hết cả – nếu lời hồi âm có vẻ không ổn với hắn – thế là chúng ta đi tong. Tôi chưa hỏi cậu về Birmingham. Có gì không?”

“Birmingham đã khóa sổ rồi. Nhà của gia đình Jacobi đã được sơn và bài trí lại và đang được rao bán. Đồ đạc của họ chất vào kho chờ thừa kế. Tôi đã lục qua mọi thùng chứa đồ. Những người tôi nói chuyện lại không biết gì nhiều về gia đình Jacobi. Điều duy nhất mà họ cứ nhắc đến luôn là gia đình ấy yêu thương nhau đến thế nào. Khi nào cũng vuốt ve trìu mến. Giờ thì chẳng còn gì về họ ngoài năm kiện vật dụng trong nhà kho. Ước gì tôi đã…”

“Thôi đừng có ước, giờ cậu đã vào cuộc rồi.”

“Thế còn cái dấu trên cây?”

“Trúng tâm? Chẳng có nghĩa gì với tôi cả,” Crawford đáp. “Cả Rồng Đỏ cũng không. Beverly biết chơi bài mạt chược mà. Cô ấy tinh lắm nhưng vẫn không thể hiểu ra. Dựa vào tóc hắn thì chúng ta biết hắn không phải người Hoa rồi.”

“Hắn cắt cành cây bằng kềm cộng lực. Tôi không thấy…”

Điện thoại của Crawford reo. Ông trả lời nhanh gọn. “Về bức thư, phòng thí nghiệm đã sẵn sàng rồi đấy Will. Ta đi lên văn phòng của Zeller nào. Nơi đó rộng hơn mà cũng đỡ u ám hơn.”

Lloyd Bowman, người khô ran bất chấp cái nóng, bắt kịp họ trong hành lang. Ông ta đang ve vẩy vài tấm ảnh còn ướt trong tay và cặp dưới nách một xấp bản fax. “Này Jack, tôi phải có mặt tại tòa lúc bốn giờ mười lăm” ông ta vừa nói vừa ve vẩy tay. “Về vụ tay làm séc khống Nilton Eskew cùng cục cưng Nan của hắn. Ả này có thể tay không vẽ ra tín phiếu cơ nhé. Hai năm ròng bọn này cứ làm tôi điên cả đầu vì chúng tự in séc du lịch bằng máy photocopy màu. Chúng ra khỏi nhà là mang theo séc. Liệu tôi có kịp giờ không hay tôi nên báo với công tố viên?”

“Anh sẽ kịp mà,” Crawford đáp. “chúng ta tới rồi đây.”

Beverly Katz ngồi trên ghế bành trong phòng làm việc của Zeller mỉm cười với Graham, chả bù Price ngồi cạnh cô đang cau có.

Trưởng ban Phân tích Khoa học Brian Zeller còn khá trẻ so với vị trí của mình, nhưng tóc tai ông ta đã thưa thớt dần đi và ông đeo kính hai tròng. Graham trông thấy trên kệ sách sau bàn của Zeller là cuốn sách giáo khoa về pháp y của H.J. Wall, bộ ba cuốn rất hay Lorensic Medicine của Tedeschi và ấn phẩm cổ The Wreck of the Deutschland của Hopkins.

“Will, chúng ta từng gặp nhau một lần tại G.W.U. nhỉ,” Zeller lên tiếng. “Cậu quen hết mọi người đây chứ? Vậy thì tốt.”

Crawford đứng dựa vào góc bàn giấy của Zeller, hai tay khoanh lại. “Có ai tìm được thông tin bom tấn gì không? Okay, có bất cứ thứ gì mọi người tìm được chỉ ra rằng lá thư không phải do Tiên Răng gửi đến không?”

“Không,” Bowman đáp. “Vài phút trước tôi có nói chuyện với bên Chicago để đưa cho họ vài con số tôi thu được từ dấu lưu lại đằng sau bức thư. 666. Tôi sẽ cho các anh chị xem khi đến phần đấy. Tính đến thời điểm này Chicago đã thu được hơn 200 mẩu quảng cáo rao vặt.” Ông ta đưa cho Graham một bó tờ fax. “Tôi đã đọc qua, toàn những thứ thông thường – mấy lời cầu hôn, kêu gọi trẻ đi bụi về nhà. Tôi không rõ bằng cách nào chúng ta có thể nhận diện được mẩu rao vặt, giả dụ như là nó có ở đây.”

Crawford lắc đầu. “Tôi cũng chẳng biết. Chúng ta hãy phân tích phần bằng chứng cụ thể nào. Jimmy Price đã làm mọi thứ có thể mà không tìm được dấu tay nào. Còn cô thì sao hả Bev?”

“Tôi tìm được một sợi râu. Tỷ lệ so sánh và kích cỡ lõi khớp với mẫu râu từ Hannibal Lecter. Cả màu sắc cũng thế. Màu sắc khác hoàn toàn từ những mẫu lấy từ Birmingham và Atlanta. Những hạt màu xanh cùng vài đốm đen được chuyển cho bên Brian.” Cô nhướn mày nhìn Brian Zeller.

“Mấy hạt đấy là chất tẩy rửa đã kết tinh có thuốc tẩy,” Zeller nói. “Chắc là rơi ra từ tay của nhân viên vệ sinh. Có nhiều phân tử li ti máu khô. Dứt khoát là máu, nhưng lại không đủ lượng để phân loại được.”

“Phần xé ở cuối mẩu giấy là xé ra từ đường lỗ kim trên cuộn giấy vệ sinh,” Beverly Katz nói tiếp. “Nếu chúng ta tìm được cuộn giấy hiện do ai giữ, mà hắn chưa xé tiếp đi, thì chúng ta sẽ tìm được một mẫu khớp chính xác. Tôi đề nghị chúng ta đưa ra khuyến cáo ngay, để cho các cảnh sát khi làm nhiệm vụ bắt giữ đảm bảo sẽ lục tìm cuộn giấy vệ sinh ấy.”

Crawford gật đầu. “Bowman?”

“Sharon trong vẫn phòng tối phân tích loại giấy và tìm mẫu khớp. Đấy là loại giấy vệ sinh dùng trong buồng vệ sinh hàng hải hoặc nhà di động. Kết cấu giấy trùng với nhãn hiệu Wedeker được sản xuất ở Minneapolis. Loại giấy này được phân phối toàn quốc.”

Bowman trưng các tấm ảnh trên một khung hình gần cửa sổ. Giọng nói ông ta trầm khàn đến bất ngờ so với vóc người nhỏ bé, nơ con bướm trên cổ ông ta khẽ rung. “Về phần chữ viết tay, đây là một kẻ thuận tay phải dùng tay trái để viết ra kiểu mẫu chữ viết hoa có chủ đích. Mọi người có thể thấy nét xổ thẳng run rẩy không đều và nhiều kích cỡ chữ cái khác nhau.

“Kích thước các chữ ấy khiến tôi nghĩ kẻ chúng ta đang tìm có thể bị chứng loạn thị nhẹ nhưng không chữa.

“Mực viết trên cả hai mảnh thư dưới ánh sáng tự nhiên trông giống như loại bút bi Royal Blue thông thường, nhưng dưới kính lọc màu thì có một chút khác biệt xuất hiện. Hắn đã dùng hai cây bút, đổi bút đâu đó ngay phần thư bị mất đi. Mọi người có thể thấy nơi cây bút đầu tiên bắt đầu tắc mực. Cây bút đầu tiên không được dùng thường xuyên – thấy cục mực nơi chữ bắt đầu chứ? Có lẽ cây bút này đã được cầm chúc đầu và không được đậy nắp trong lọ cắm bút hay hộp giấy, gợi ý cho thấy là khung cảnh bàn giấy. Với lại mặt phẳng mà tờ giấy được đặt lên khá mềm nên có thể là bàn thấm mực. Bàn thấm mực có thể lưu lại được vết hằn nếu ta tìm ra nó, tôi muốn thêm phần bàn thấm mực vào công văn khuyến cáo của Beverly.”

Bowman lật sang một bức ảnh phần sau lá thư. Phần phóng đại cực độ khiến mặt giấy trông mờ nhòe. Trên đấy hằn những vết hằn được đánh bóng. “Hắn gấp thư lại để viết phần kết, bao gồm cả những gì mà sau đấy đã bị xé bỏ. Trong ảnh phóng đại phần phía sau bức thư này, ánh sáng xiên góc làm lộ ra vài dấu hằn. Chúng tôi có thể đọc ra được “666”. Có lẽ đến đấy hắn gặp vấn đề với cây bút nên phải đè xuống viết chồng lên. Mãi đến tấm ảnh tương phản cao này thì tôi mới nhìn ra được. Cho đến thời điểm này thì không có 666 trong bất cứ mẫu quảng cáo rao vặt nào.

“Cấu trúc câu văn rất mạch lạc không dông dài. Các nếp gấp cho thấy thư được gửi đi trong một bì thư cỡ chuẩn. Hai cái chỗ đen đen này là vết nhòe do mực in. Chắc chán lá thư đã được gấp vào trong một ấn phẩm vô thưởng vô phạt nào đấy nằm trong phong bì.

“Chỉ chừng đấy thôi,” Bowman nói. “Jack, nếu anh không có câu hỏi nào, thì tôi phải đi lên tòa đây. Sau khi ra làm chứng xong tôi sẽ quay lại.”

“Dìm bọn chúng thấu đáy đi.” Crawford bảo.

Graham đọc qua mục rao vặt trên tờ Tattler. “Quý cô phương phi hấp dẫn, 52 xuân xanh, tìm kiếm tình lang không hút thuốc tuổi từ 40-70. Vui lòng không con cái. Tay chân giả cũng được đón chào. Không hàng róm. Gửi kèm hình trong thư đầu tiên”)

Đắm mình trong nỗi đau và niềm tuyệt vọng của những mẩu rao vặt, Graham không để ý thấy những người khác đang ra khỏi phòng cho đến khi Beverly Katz nói chuyện với anh.

“Xin lỗi nhé Beverly. Cô nói gì cơ?” Anh nhìn lên đôi mắt sáng cùng gương mặt đôn hậu, mệt mỏi của cô.

“Tôi chỉ nói là rất vui khi thấy anh quay lại, bạn hiền à. Anh trông khỏe khoắn lắm.”

“Cảm ơn Beverly.”

“Saul đang đi học nấu ăn. Thằng bé tay nghề còn thất thường lắm, nhưng khi nào mọi chuyện xong xuôi rồi thì anh hãy ghé qua nhà để thằng bé trổ tài cho anh nhé.”

“Tôi sẽ ghé.”

Zeller bỏ đi về phòng thí nghiệm của mình. Chỉ còn lại Graham và Crawford, cùng nhìn đồng hồ.

“Bốn mươi phút nữa là đến giờ Tattler ra báo” Crawford nói. “Tôi sẽ đi truy thư của họ. Cậu thấy sao?”

“Tôi nghĩ anh phải làm thế.”

Crawford dùng điện thoại của Zeller để ra chỉ thị cho Chicago. “Will này, chúng ta cần phải sẵn sàng có một mẩu rao vặt thay thế nếu như Chicago tìm đúng đối tượng.”

“Tôi sẽ lo vụ này.”

“Tôi sẽ dàn xếp chỗ bỏ thư.”

Crawford gọi cho bên Mật vụ và nói chuyện khá lâu. Graham vẫn đang hí hoáy viết gì đó khi ông ta nói chuyện xong.

“Okay, vụ chỗ bỏ thư xong xuôi rồi” cuối cùng Crawford cũng nói. “Là một thùng tin nhắn bên ngoài hãng bảo trì bình chữa cháy ở Annapolis. Đấy là đất của Lecter. Tiên Răng có thể thấy đây là thứ mà Lecter có thể rành. Những hộc thư nhỏ theo thứ tự chữ cái. Nhân viên bảo trì lái xe đến đấy để nhận chỉ định công tác cùng thư từ. Người của chúng ta có thể theo dõi từ một công viên phía bên kia đường. Mật vụ thề rằng nơi này nhìn an toàn lắm. Họ bày ra nơi này để bắt một kẻ giả mạo, nhưng rốt cuộc lại không cần đến. Địa chỉ đây. Còn lời nhắn thế nào rồi?”

“Chúng ta phải dùng hai mẩu tin trong cùng một số báo. Mẩu thứ nhất cảnh báo cho Tiên Răng biết rằng kẻ thù của hắn đang ở gần hơn hắn tưởng. Mẩu tin sẽ nói cho hắn biết hắn đã phạm một sai lầm nghiêm trọng ở Atlanta và nếu hắn còn tái phạm thì sẽ tiêu đời. Mẩu tin mách với hắn rằng Lecter đã gửi “tin mật” mà tôi đã cho Lecter xem, về những gì chúng ta đang làm, chúng ta đang tiến gần đến mức nào, những manh mối mà chúng ta đang có. Mẩu tin sẽ dẫn dụ Tiên Răng đến mẩu tin thứ hai bắt đầu bằng “chữ ký của bạn”.

“Mẩu tin thứ hai bắt đầu bằng “Người hâm mộ tha thiết” và chứa đựng địa chỉ của thùng thư. chúng ta phải làm theo cách ấy thôi. Ngay cả bằng ngôn từ loằng ngoằng thì lời cảnh báo trong mẩu tin thứ nhất cũng sẽ khiến mấy ca khùng nhẹ nổi hứng cho xem. Nhưng nếu chúng không thể tìm thấy địa chỉ thì sẽ không thể đến địa điểm thùng thư mà phá hỏng mọi chuyện.”

“Hay. Quá hay. Có muốn ngồi chờ trong văn phòng tôi không?”

“Tôi thà làm gì đó còn hơn. Tôi cần phải gặp Brian Zeller.”

“Đi đi, nếu cần tôi có thể tìm gấp được cậu”

Graham tìm thấy Zeller tại bộ phận huyết thanh.

“Brian, anh có thể cho tôi xem vài thứ không?”

“Được chứ, thứ gì nào?”

“Những vật mẫu anh dùng để định dạng Tiên Răng.”

Zeller nhìn Graham qua phần tròng kính tiêu cự gần. “Trong báo cáo có thứ gì anh không hiểu sao?”

“Không”

“Có gì không rõ à?”

“Không.”

“Hay chưa hoàn chỉnh?” Zeller nói thầm từ này như thể nó có vị khó chịu.

“Bản báo cáo của anh không sao cả, không thể tìm được báo cáo nào cặn kẽ hơn đâu. Tôi chỉ muốn được cầm bằng chứng trong tay thôi mà.”

“À, chắc chắn rồi. Ta có thể làm thế.” Zeller tin rằng mọi người điều tra hiện trường đều lưu giữ cho mình tập tục mê tín trong cuộc đi săn. Ông ta vui vì mình khiến Graham được hài lòng. “Tất cả đều ở cuối dãy kia kìa.”

Graham đi theo Zeller giữa hai dãy kệ dài những dụng cụ phòng thí nghiệm. “Anh đang đọc Tedeschi.”

“Vâng,” Zeller đáp với qua vai, “ở đây chúng ta không nghiên cứu pháp y, như anh biết đấy, nhưng Tedeschi viết lắm thứ bổ ích trong quyển sách ấy. Graham. Will Graham. Anh đã viết một chuyên khảo chuẩn về việc xác định thời gian tử vong căn cứ vào hoạt động của côn trùng, đúng không nhỉ? Có phải tôi đã gặp đúng anh Graham ấy?”

“Tôi viết đấy.” Im lặng một lúc. “Anh nói phải, Mant và Nuorteva trong sách của Tedeschi viết về côn trùng giỏi hơn.”

Zeller ngạc nhiên khi nghe thấy suy nghĩ của mình được nói lên. “À, đúng là trong đó có nhiều hình ảnh và bảng biểu về tần sóng lan tràn hơn. Không có ý gì đâu nhé.”

“Tất nhiên rồi. Họ giỏi hơn mà. Tôi đã bảo họ thế.”

Zeller lấy mấy ống nhỏ cùng tiêu bản trong tủ đựng và tủ lạnh ra, bày lên quầy phòng xét nghiệm. “Nếu anh cần hỏi gì tôi, tôi sẽ ở chỗ lúc nãy anh tìm thấy tôi đấy. Đèn rọi trên kính hiển vi này nằm ở bên hông đây.”

Graham không cần kính hiển vi. Anh không nghi ngờ bất cứ phát hiện nào của Zeller cả. Anh không biết mình muốn gì. Anh giơ những ống lẫn bản kính lên ánh đèn, cùng một phong bì giấy bóng mờ chứa hai sợi tóc vàng hoe được tìm thấy ở Birmingham. Một phong bì thứ hai đựng ba sợi tóc tìm được trên người bà Leeds.

Trên bàn trước mặt Graham là những nước bọt cùng tóc lẫn tinh dịch, và không trung trống rỗng nơi anh cố nhìn ra một hình ảnh, một gương mặt, một thứ gì đó để thay thế cho nỗi kinh hoàng không hình dạng mà anh mang theo mình.

Một giọng phụ nữ vọng ra từ loa bắc trên trần nhà. “Graham, Will Graham, đến văn phòng của đặc vụ Crawford. Khẩn”

Anh thấy Sarah đeo tai nghe đang đánh máy trong khi Crawford nhìn qua vai cô ta.

“Chicago tìm được một đơn đặt quảng cáo có số 666 trong đấy,” Crawford nói qua khóe miệng. “Hiện tại họ đang đọc cho Sarah viết ra. Họ bảo một phần của nó trông như mật mã.”

Những dòng chữ đang từ máy đánh chữ của Sarah trồi ra:

Người Hành Hương thân mến, bạn làm tôi lấy làm vinh dự..

“Đúng rồi. Nó đấy” Graham thốt lên. “Lecter tự gọi là Kẻ Hành Hương khi hắn nói chuyện với tôi.”

Bạn thật đẹp…

“Chúa ôi,” Crawford kêu.

Tôi nguyện dâng 100 lời khẩn cầu để bạn được an toàn.

Hãy tìm kiếm trợ giúp trong John 6:22,8:16,9:1; Luke 1:7,3:1;

Galatians 6:11,15:2; Acts 3:3; Revelation 18:7; Jonah 6:8…

Tốc độ đánh máy chậm lại khi Sarah đọc lại từng cặp số cho sĩ quan bên đầu Chicago. Khi cô xong việc thì những cặp số tham khảo thuộc Kinh Thánh đã phủ hết một phần tư trang giấy. Mẩu tin được ký bằng “Cầu Chúa ban phước lành cho bạn, 666.”

“Có vậy thôi” Sarah nói.

Crawford nhấc điện thoại lên. “Được rồi, Chester, tình hình với tay quản lý mục quảng cáo thế nào rồi? Không, cậu làm phải đấy. Câm như hến, đúng vậy. Cứ chờ ngay đầu dây đấy nhé, tôi sẽ gọi lại cho cậu.”

“Mật mã” Graham nói.

“Phải vậy thôi. chúng ta có được 22 phút để đưa tin nhắn vào nếu chúng ta có thể giải mã được. Tay quản đốc cần được thông báo trước mười phút và 300 đô la để nhét mẩu tin vào số báo này. Bowman đang ở trong văn phòng anh ta, đang giờ giải lao. Nếu anh nhờ anh ta giải mã thì tôi sẽ nói chuyện với bộ phận mật mã học ở Langley. Sarah, gửi điện tín mẩu rao vặt này cho bộ phận mật mã học của CIA. Ngay bây giờ tôi sẽ nói với họ là đang được gửi đến.”

Bowman đặt mẩu rao vặt xuống bàn, sắp nó ngay ngắn thẳng góc với bàn thấm mực. Ông ta lau bóng mắt kính không gọng trong một lát mà Graham thấy chừng như rất lâu.

Bowman có tiếng là rất nhanh. Ngay cả bộ phận Cháy nổ cũng không quan tâm đến việc ông ta không phải là một cựu Thủy quân Lục chiến mà ngợi khen ông ta như thế.

“Chúng ta có hai mươi phút” Graham nói.

“Tôi hiểu. Anh gọi đến Langley chưa?”

“Crawford gọi rồi.”

Bowman đọc mẩu tin nhiều lần, nhìn xuôi nhìn ngược nhìn nghiêng, lần ngón tay dọc theo lề giấy. Ông ta lấy Kinh Thánh khỏi kệ sách. Trong năm phút thứ âm thanh duy nhất là hai con người đang thở cùng tiếng sột soạt của những trang giấy mỏng tang.

“Không,” ông ta nói. “Lần này chúng ta không kịp rồi. Tốt hơn hết, hãy sử dụng thời gian còn lại cho bất cứ việc gì khác mà anh có thể làm được đi.”

Graham chìa ra bàn tay trống không.

Bowman quay ghế lại đối diện Graham và gỡ kính xuống. Hai bên mặt ông có hai đốm hồng. “Anh có thấy khá vững tin rằng bức thư gửi cho Lecter là kênh thông tin duy nhất hắn nhận được từ Tiên Răng của anh không vậy?”

“Phải.”

“Thế thì mật mã phải là gì đấy đơn giản thôi. Chúng chỉ cần che mắt những người đọc bình thường. Căn cứ vào đường lỗ kim trên bức thư gửi cho Lecter, thì chỉ mất đâu khoảng sáu phân. Vậy là không đủ chỗ cho lời chỉ dẫn. Những con số không hợp lý với loại mã chữ cái dùng trong nhà tù – mã gõ. Tôi đoán đây là mã sách.”

“Mã sách ư?” Crawford hòa vào.

“Trông có vẻ thế. Con số đầu tiên, “100 lời cầu nguyện” ấy, có thể là số trang. Những số thành cặp theo số tham khảo trong Kinh Thánh có thể là dòng và chữ cái. Nhưng mà sách nào mới được?”

“Không phải Kinh Thánh sao?” Crawford hỏi.

“Không, không phải Kinh Thánh. Thoạt tiên tôi cũng tưởng thế. Galatians 6:11 làm tôi mừng rơn. “Hãy xem chính tay tôi này viết thơ cho anh em, chữ lớn là dường nào. Như thế cũng phù hợp lắm, nhưng chỉ là ngẫu nhiên thôi vì tiếp theo hắn có Galatians 15:2. Galatians chỉ có sáu chương. Cùng như Jonah 6:8 – Jonah chỉ có bốn chương. Không phải hắn đang dùng Kinh Thánh đâu.”

“Có lẽ nhan đề cuốn sách được giấu ở phần dễ hiểu trong tin nhắn của Lecter chăng” Crawford bảo.

Bowman lắc đầu. “Tôi không cho là vậy.”

“Thế thì Tiên Răng đã chỉ đích danh cuốn sách cần dùng. Hắn đã nói rõ trong bức thư gửi cho Lecter,” Graham nói.

“Trông có vẻ thế thật” Bowman đáp. “Thế ép lấy lời khai từ Lecter thì sao nhỉ? Trong bệnh viện tâm thần thì tôi tưởng các loại thuốc…”

“Ba năm trước người ta dùng sodium amytal cho hắn để cố tìm ra nơi hắn chôn một sinh viên trường Princeton,” Graham kể. “Hắn nói cho họ công thức món xốt chấm. Với lại, nếu chúng ta tra khảo hắn thì chúng ta sẽ mất đầu mối liên kết. Nếu Tiên Răng đã chọn cuốn sách, thì phải là loại sách hắn biết là Lecter phải có trong xà lim.”

“Tôi biết chắc hắn đã không đặt mua hay mượn sách từ Chilton rồi,” Crawford nói.

“Báo chí đã đưa tin gì về chuyện này hả Jack? Về chuyện sách của Lecter đấy?”

“Rằng hắn có sách y khoa, tâm thần học, sách nấu ăn.”

“Vậy thì có thể là một trong những cuốn tiêu biểu trong những lĩnh vực ấy, một loại thật cơ bản mà Tiên Răng biết nhất định Lecter phải có,” Bowman nói. “chúng ta cần một danh sách những cuốn sách Lecter đang có. Anh có không?”

“Không.” Graham nhìn chăm chằm xuống giày. “Tôi có thể bảo Chilton – chờ đã. Rankin và Willingham, khi họ lục soát xà lim của hắn, họ có chụp hình lại để sắp đặt mọi thứ về chỗ cũ.”

“Anh có thể yêu cầu họ đến gặp tôi mang theo bức ảnh về mấy cuốn sách được không?” Bowman vừa hỏi vừa xếp lại cặp táp.

“Ở đâu?”

“Thư viện Quốc hội.”

Crawford kiểm tra lần cuối với bộ phận mật mã học của CIA. Máy tính tại Langley đang thử các tổ hợp thay thế chữ-số tương thích và tăng tiến cùng lô lốc lưới chữ cái. Không có tiến triển gì. Chuyên viên mật mã đồng ý với Bowman rằng có thể đây là loại mã sách.

Crawford nhìn đồng hồ đeo tay. “Will, chúng ta chỉ còn ba lựa chọn và phải quyết định ngay lúc này. Chúng ta có thể rút mẩu tin của Lecter ra khỏi báo và không cho đăng gì cả. Chúng ta có thể thế vào mẩu tin của chúng ta viết bằng ngôn ngữ bình thường mời Tiên Răng đến địa điểm thùng thư. Hoặc là chúng ta cứ để cho đăng mẩu tin của Lecter như thế.”

“Anh có chắc chúng ta vẫn có thể rút mẩu tin của Lecter ra khỏi tờ Tattler không?”

“Chester nghĩ rằng tay quản đốc sẽ khoét mẩu tin đó đi với giá khoảng 500 đô.”

“Tôi không thích đăng tin nhắn bằng ngôn từ bình thường đâu, Jack à. Chắc chắn Lecter sẽ không bao giờ nhận được gì từ hắn nữa”

“Ừ, nhưng tôi ngán phải để cho tin nhắn của Lecter được đăng trong khi lại không biết tin ấy nói gì,” Crawford nói. “Nhỡ Lecter nói cho hắn biết những gì hắn chưa biết thì sao? Nếu hắn phát hiện ra chúng ta đã có được một nửa vân tay cái và dấu tay hắn không nằm trong bất cứ hệ thống nào, hắn có thể gọt phăng ngón cái của hắn rồi rút hết cả răng sau đó nhe lợi cười ha hả vào mặt chúng ta tại tòa đấy.”

“Dấu ngón tay cái không nằm trong bản tóm tắt vụ án mà Lecter nhìn thấy. Chúng ta nên để cho đăng mẩu tin của Lecter đi. Ít ra như thế còn khuyến khích Tiên Răng liên lạc lại với hắn.”

“Nhỡ như thế khuyến khích hắn làm gì khác ngoài việc viết thư thì sao?”

“Thì chúng ta sẽ thấy buồn nôn trong một thời gian rất dài” Graham đáp. “chúng ta phải làm thôi.”

Mười lăm phút sau tại Chicago dàn máy in khổng lồ của tờ Tattler khởi động, tăng tốc dần dần cho đến khi tiếng động ầm ầm từ chúng làm tung cả bụi trong xưởng in. Nhân viên F.B.I. ngồi chờ trong mùi mực và không khí oi nồng của báo mới in với tay lấy một trong những tờ báo đầu tiên.

Những dòng tít trang đầu bao gồm “GIẢI PHẪU THAY ĐẦU!” và “CHIÊM TINH GIA THOÁNG NHÌN THẤY CHÚA!”

Nhân viên F.B.I. kiểm tra để bảo đảm mẩu tin của Lecter được đăng rồi chuồi tờ báo vào trong túi chuyển phát nhanh đến Washington. Anh ta sẽ một lần nữa nhìn thấy tờ báo ấy và nhớ ra dấu ngón cái lem mực của mình trên trang nhất, nhưng đấy sẽ là chuyện của nhiều năm sau khi anh dẫn con mình đi xem các tang vật đặc biệt trong chuyến tham quan các trụ sở.

Trước
image
Chương 15
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!