Will Graham chầm chậm lái xe ngang qua ngôi nhà nơi gia đình Charles Leeds từng sinh sống rồi mất mạng. Các ô cửa sổ tối om. Một bóng đèn ngoài sân vẫn sáng. Anh đậu xe cách đấy hai dãy nhà rồi cuốc bộ ngược lại dưới trời đêm ấm áp, mang theo bản tường trình của cảnh sát điều tra thành phố Atlanta trong một chiếc hộp các tông.
Graham đã nằng nặc chỉ muốn đến đây một mình. Bất cứ ai khác trong nhà sẽ khiến anh sao nhãng – đấy là lý do anh nói với Crawford. Anh có một lý do khác, lý do của riêng anh: anh không rõ mình sẽ phản ứng thế nào. Anh không muốn có một bản mặt cứ chăm chăm nhắm vào anh.
Trong nhà xác anh đã rất ổn.
Căn nhà hai tầng bằng gạch thụt lùi khỏi mặt đường trong một khu vực rậm rạp cây cối. Graham đứng một lúc lâu dưới hàng cây mà ngắm nhìn ngôi nhà. Anh cố tĩnh tâm. Trong trí óc anh một con lắc bằng bạc đu đưa trong bóng tối. Anh chờ cho đến khi con lắc đứng yên.
Vài ba hàng xóm lái xe ngang qua, lướt mắt nhìn căn nhà thật nhanh rồi nhìn ra chỗ khác. Một ngôi nhà có án mạng đối với hàng xóm xung quanh sẽ rất xấu xí, như gương mặt của kẻ đã phản bội lại họ. Chỉ có những người không sống trong vùng cùng đám trẻ con là giương mắt nhìn.
Các màn cửa đều được kéo lên. Graham lấy làm hài lòng. Như thế có nghĩa là không có người bà con nào của gia chủ từng bước vào trong ấy. Nếu là người thân thì họ thường hay hạ hết các màn cửa xuống.
Anh đi lòn ra bên hông nhà, thận trọng di chuyển, không dùng đến đèn pin. Anh dừng lại hai lần để nghe ngóng. Cảnh sát Atlanta biết anh đang ở đây, nhưng hàng xóm thì không. Họ sẽ giật mình hoảng sợ. Biết đâu họ lại nổ súng.
Nhìn qua cửa sổ sau nhà, anh có thể trông thấy suốt từ đấy ra đến ngọn đèn ngoài sân trước, qua những bóng bàn ghế trong nhà. Mùi hoa dành dành sực nức trong không trung. Một hàng hiên rào gỗ đan mắt cáo bọc gần hết phía sau nhà. Trên cánh cửa hàng hiên là dây niêm phong của phòng Cảnh sát Atlanta Graham gỡ dây niêm phong ra mà đi vào.
Cánh cửa từ ngoài hiên dẫn vào gian bếp được bít ván ép ở những chỗ cảnh sát đã tháo kính ra. Dưới ánh đèn pin, Graham mở cửa bằng chiếc chìa cảnh sát đã đưa cho. Anh muốn bật đèn điện. Anh muốn đeo cái phù hiệu sáng bóng của mình vào rồi chính thức gây ra vài ba âm thanh để thông báo về sự có mặt của mình với sự tĩnh lặng của ngôi nhà nơi năm con người đã thiệt mạng. Nhưng anh chẳng làm gì sất. Anh đi vào gian bếp tối om rồi ngồi xuống bên bàn ăn điểm tâm.
Hai bóng đèn định vị trên chiếc máy hút khói sáng xanh trong bóng tối. Anh ngửi thấy mùi véc ni và táo.
Nhiệt kế kêu đánh cách và hệ thống điều hòa bật lên. Graham giật bắn mình khi nghe thấy âm thanh ấy, cảm nhận nỗi sợ hãi nhỏ xuống.
Anh quá quen thuộc với ba cái chuyện sợ hãi này rồi. Nỗi sợ này anh có thể xử lý được. Đơn giản là anh chỉ sợ thôi mà, và đằng nào thì anh cũng có thể tiếp tục được thôi.
Khi sợ anh lại có thể nghe và nhìn rõ hơn; nói thì không thể nói gãy gọn được bằng, và nỗi sợ nhiều khi còn biến anh thành ra thô lỗ. Nhưng ở đây chẳng còn lại ai để mà thưa thốt, nên cũng không còn ai để bị anh làm cho phật lòng.
Sự cuồng điên đã lọt vào ngôi nhà này qua cánh cửa dẫn vào trong bếp, đi lại trên đôi giày cỡ 11. Ngồi trong bóng tối, anh cảm nhận thấy sự cuồng điên như một con chó săn đánh hơi chiếc áo.
Graham đã nghiên cứu báo cáo của viên thanh tra đội Trọng án thành phố Atlanta nguyên cả ngày và xế chiều nay. Anh nhớ là đèn trên bộ thông khói bên trên bếp lò vẫn còn mở khi cảnh sát đến đây. Giờ anh cũng bật nó lên.
Hai mẫu thêu lồng khung treo trên vách bên cạnh bếp lò. Một mẫu mang dòng chữ “Nụ hôn không vương vấn được lâu, chỉ nấu ăn là có.” Mẫu kia là “Bạn bè ta luôn thích nhất là vào đến căn bếp, để nghe tâm nhịp của ngôi nhà, để an lòng trong tiếng rì rầm nơi ấy.”
Graham nhìn đồng hồ đeo tay. 11 giờ 30 tối. Theo lời nhân viên khám nghiệm, những cái chết xảy ra vào khoảng giữa 11 giờ đêm và 1 giờ sáng.
Trước hết là chuyện lối vào. Anh suy nghĩ đến điều này…
Tên điên móc khóa của cánh cửa lưới bên ngoài lên, đứng trong bóng tối trên hàng hiên rồi lôi thứ gì đó trong túi ra. Một cái đế hút, có thể là đế của đồ gọt bút chì được thiết kế để dính bám vào màn hình máy tính.
Ngồi khom người nép vào phần nửa dưới cánh cửa bếp bằng gỗ, tên điên ngẩng đầu lên nhìn qua lớp kính. Hắn thè lưỡi liếm vào đế hút, ép nó lên tấm kính rồi gạt cản cho dế dính vào. Một lưỡi dao cắt kính nho nhỏ được cột vào đế bằng một sợi dây để hắn có thể cắt thành vòng tròn.
Dao cắt kính rít lên khe khẽ rồi thêm một cái vỗ dứt khoát để đập vỡ tấm kính. Một tay vỗ, một tay giữ đế hút. Miếng kính phải không được rơi xuống. Miếng kính được cắt rồi có hình meo méo như quả trứng vì sợi dây quấn lại quanh trục của đế hút khi hắn cắt. Một âm thanh kẽo kẹt nho nhỏ khi hắn kéo miếng kính lùi ra ngoài. Hắn chẳng quan tâm mình để lại nước bọt AB trên lớp kính.
Bàn tay hắn trong chiếc găng bó sát luồn qua lỗ hổng, lần tìm ổ khóa. Cánh cửa im lặng mở ra. Hắn đã lọt vào trong. Qua ánh sáng từ máy hút khói hắn có thể trông thấy thân thể mình trong căn bếp xa lạ này. Trong nhà không khí mát mẻ dễ chịu.
WilI Graham ăn hai viên Di-Gel. Tiếng giấy bóng kính rột roạt khi bị anh nhét lại vào túi quần khiến anh khó chịu. Anh bước xuyên qua phòng khách, theo thói quen giữ đèn pin cách thật xa khỏi người. Mặc dù đã nghiên cứu bản vẽ căn nhà, anh vẫn quành sai một lần rồi mới tìm được cầu thang. Cầu thang không cọt kẹt.
Giờ đây anh đứng ngay lối cửa đi vào phòng ngủ chính. Không cần ánh đèn pin anh vẫn có thể trông thấy mờ mờ. Một chiếc đồng hồ báo thức điện tử đặt trên bàn cạnh giường ngủ phả số chỉ giờ lên trần nhà và một bóng đèn đêm màu cam đang sáng phía trên gờ ốp chân tường cạnh phòng tắm. Nồng nặc mùi máu tanh.
Mắt thường đã làm quen với bóng tối rồi thì sẽ nhìn được khá rõ. Tên điên có thể phân biệt được ông Leeds và vợ ông ta. Ánh đèn đủ sáng cho hắn đi vào phòng, chộp lấy tóc ông Leeds để cắt cổ ông ấy. Rồi sao nữa? Lui trở lại công tắc đèn trên tường, một lời chào hỏi đến bà Leeds rồi một phát súng để vô hiệu hóa bà ấy chăng?
Graham bật công tắc đèn, thế là các vết máu tung tóe đập vào mắt anh từ vách tường, từ nệm giường lẫn sàn nhà. Ngay cả không khí cũng vấy đầy tiếng thét. Anh chùn bước trước âm thanh trong căn phòng câm lặng đầy những vệt sảm màu đang khô này.
Graham ngồi bệt xuống sàn cho đến khi đầu anh dịu lại. Tĩnh, tĩnh, phải thật tĩnh.
Số lượng và sự đa dạng của các vết máu đã khiến các thanh tra ở Atlanta nhức đầu khi cố tái tạo lại tội ác. Mọi nạn nhân đều được tìm thấy bị giết hại trong phòng của từng người. Như thế này lại không khớp với vị trí các vết máu.
Thoạt tiên họ cho rằng Charles Leeds bị tấn công trong phòng của con gái mình rồi xác ông ta được kéo vào phòng ngủ chính. Nhưng sau khi kiểm tra cặn kẽ thì họ cân nhắc lại.
Sơ đồ di chuyển chính xác của tên sát nhân vẫn chưa được xác định.
Lúc này đây, nhờ có lợi thế từ kết quả giám định pháp y và các báo cáo từ phòng thí nghiệm, Will Graham bắt đầu nhìn ra chuyện đã xảy ra như thế nào.
Kẻ đột nhập cắt cổ Charles Leeds khi ông ta đang nằm ngủ cạnh vợ, hắn lui lại công tắc đèn trên tường để mở đèn lên vì tóc và dầu từ đầu ông Leeds dính trên chiếc găng trơn nhẵn còn vương lại trên bảng công tắc đèn. Hắn bắn vào bà Leeds khi bà này ngồi dậy, rồi sau đấy đi về phía phòng của mấy đứa nhỏ.
Ông Leeds lết dậy cùng cái cổ bị cắt để cố bảo vệ con, khiến ông ta mất một lượng máu kha khá và một tia máu từ động mạch không lẫn vào đâu được bắn ra khi ông này cố chống trả. Ông ta bị đẩy gạt ra, ngã xuống rồi chết cùng con gái mình trong phòng cô bé.
Một trong hai bé trai bị bắn ngay trên giường. Bé còn lại cũng được tìm thấy trên giường, nhưng trên tóc có vướng mấy cục bụi. Cảnh sát cho rằng cậu bé đã bị kéo ra từ dưới gầm giường rồi bị bắn.
Khi mọi người đã chết, có thể là trừ bà Leeds, thì trò đập nát mấy tấm gương mới bắt đầu, rồi đến việc lựa chọn mảnh gương vỡ, rồi thì mới chăm sóc đến bà Leeds thêm.
Graham có đầy đủ bản sao trình tự giám định pháp y trong chiếc hộp của mình. Đây là biên bản về phần bà Leeds. Viên đạn đi vào từ phía bên phải rốn bà ta rồi ghim vào đốt sống thắt lưng, nhưng bà chết vì bị bóp cổ.
Sự gia tăng serotonin và hàm lượng histamine tự do từ vết thương do đạn bắn cho thấy bà còn sống ít nhất năm phút sau khi bị bắn. Lượng histamine cao hơn serotonin nhiều, vì thế bà đã không sống quá năm phút. Đa số các vết thương trên người bà có lẽ, nhưng không nhất thiết, được gây ra sau khi chết.
Nếu các thương tích khác đều xảy ra sau khi chết, thì kẻ sát nhân làm gì trong khoảng thời gian khi bà Leeds đang nằm chờ chết nhỉ?
Graham tự hỏi. Xô đẩy ông Leeds và giết những người còn lại, đúng vậy, nhưng chuyện đó hẳn chỉ mất chưa tới một phút. Đập nát mấy tấm gương. Nhưng còn gì nữa?
Các thanh tra từ Atlanta đã rất thấu đáo. Họ đã đo đạc và chụp lại ảnh sát sao, đã hút bụi rồi rà soát từng xăng ti mét và đã lấy cả những tấm lưới lọc từ dưới cống lên. Thế nhưng, Graham vẫn sẽ tự tìm kiếm cho mình.
Từ ảnh chụp của cảnh sát và mép ngoài đã niêm phong của các tấm nệm, Graham có thể nhận thấy nơi những xác chết được tìm thấy.
Bằng chứng – những dấu nitrat trên chăn đệm trong trường hợp các vết thương do súng bắn – cho thấy nạn nhân được tìm thấy trong những tư thế gần giống như tư thế họ bị sát hại.
Nhưng các vết máu ngập ngụa và những vết trượt mờ mờ trên thảm ngoài sảnh hành lang vẫn không được lý giải. Một thanh tra đã giả thiết rằng vài nạn nhân cố bò lê tránh khỏi tên sát nhân. Graham không tin là vậy – rõ ràng tên sát nhân đã dịch chuyển nạn nhân sau khi họ chết rồi đặt họ lại theo đúng cách họ đã chết đi khi hắn giết họ.
Những gì hắn làm với bà Leeds thì lại quá rõ. Nhưng với những người còn lại thì sao? Hắn đã không tàn phá nhân dạng của họ thêm, như hắn đã làm với bà Leeds. Mấy đứa trẻ mỗi đứa chịu một phát súng vào đầu. Charles Leeds chảy máu đến chết, cộng thêm bị sặc máu. Dấu vết thêm vào duy nhất trên mình ông ta là dấu dải buộc nông quanh ngực, được tin là gây ra sau khi chết. Tên sát nhân đã làm gì với mấy người này sau khi họ chết chứ?
Graham lấy từ trong hộp của mình ra những tấm ảnh do cảnh sát chụp, các báo cáo từ phòng thí nghiệm về máu của từng nạn nhân cùng những vết bẩn hữu cơ trong phòng và các bảng chuẩn để so sánh hướng phun của máu.
Anh tỉ mỉ rà soát những căn phòng ở tầng trên, cố công khớp những vết thương vào các dấu máu, ra sức lần ngược lại. Anh tái hiện lại kịch bản của từng vệt máu trên một bản phác thảo hiện trường theo tỷ lệ của căn phòng ngủ chính, sử dụng bảng so sánh chuẩn để ước lượng hướng và vận tốc của máu rơi. Theo cách này, anh hy vọng biết được những vị trí của các xác chết trong những thời điểm khác nhau.
Đây là một hàng ba dấu máu xéo lên trên vòng quanh góc tường phòng ngủ. Đây là ba dấu mờ mờ trên thảm phía dưới chúng. Phần tường bên trên đầu giường phía Charles Leeds vấy đầy máu, còn dọc gờ chân tường lại có dấu lau xóa. Bản phác thảo hiện trường của Graham bắt đầu trông như trò chơi đố vui nối số mà lại không có con số. Anh nhìn trân trối vào đấy, ngước lên nhìn vào căn phòng rồi lại nhìn xuống bản phác thảo cho đến khi đầu nhức ong ong.
Anh đi vào phòng tắm để uống nốt hai viên Bufferin cuối cùng, tay vốc nước từ vòi trong bồn rửa. Anh tạt nước lên mặt rồi lấy vạt áo lau khô đi. Nước vấy tràn ra sàn nhà. Anh đã quên mất rằng họng chặn trong ống thoát nước đã biến mất. Còn lại thì phòng tắm không sơ sẩy tí gì, trừ tấm gương bị vỡ và những dấu vết bột lấy vân tay màu đỏ có tên là Máu Rồng. Mấy bàn chải răng, kem dưỡng da, dao cạo, tất cả đâu đều vào đấy.
Phòng tắm trông như thể gia đình này vẫn còn đang dùng đến. Tất da chân của bà Leeds vẫn treo trên giá khăn nơi bà đã để đấy hong khô.
Anh nhận thấy bà đã cắt đi một bên của một đôi bị xước để tạo thành hai đôi một chân, mang vào cùng một lúc, thế là tiết kiệm được tiền.
Việc làm kinh tế vặt vãnh tại gia ấy của bà Leeds khiến anh nhức nhối; Molly cũng làm như vậy.
Graham trèo qua cửa sổ ra ngoài phần mái hiên và ngồi xuống mái ván xô xảm. Anh bó gối, chiếc áo sơ mi ẩm ướt dán vào lưng anh lạnh ngắt, rồi anh khịt khịt xua cái mùi giết chóc ra khỏi mũi.
Đèn đóm trong thành phố Atlanta làm hoen mờ cả bầu trời đêm và sao trời chẳng thấy đâu cả. Ở vùng Keys hẳn trời đêm sẽ trong lắm. Anh có thể đang ngắm sao rơi cùng Molly và Willy, lắng nghe cái tiếng xoẹt mà ba người đều nghiêm trang đồng ý với nhau rằng ắt phải là âm thanh của sao chổi. Đợt mưa sao băng Delta Aquarid đang ở thời kỳ đỉnh điểm, và Willy háo hức chờ xem lắm.
Anh rùng mình rồi lại khụt khịt. Anh không muốn nghĩ đến Molly vào lúc này. Làm thế vừa thiếu tinh tế lại vừa mất tập trung.
Graham có rất nhiều vấn đề với sự tinh tế. Thường những suy nghĩ của anh không được ý nhị. Đầu óc anh không có được những khoang ngăn hiệu quả. Những gì anh trông thấy và học hỏi được đều chạm đến mọi thứ khác mà anh biết. Có vài sự kết hợp không thể dễ dàng sống chung. Nhưng anh không thể dự đoán, cũng không thể ngăn chặn hay trấn áp được chúng. Các giá trị anh học hỏi được về lễ nghi phép tắc theo sau chúng, choáng váng với óc liên tưởng, kinh tởm những giấc mơ của anh; thật tiếc thay trong vùng xương sọ của anh lại không có được pháo đài cho những gì anh yêu quý. Các mối liên tưởng của anh xuất hiện với vận tốc ánh sáng. Khả năng nhận định giá trị của anh lại ở mức đọc kinh cầu. Khả năng ấy không bao giờ có thể bắt kịp và điều hướng suy nghĩ của anh được.
Anh coi trạng thái tinh thần của mình là kỳ cục nhưng hữu dụng, như một chiếc ghế làm bằng gạc nai. Anh chịu chẳng thể làm gì với điều này được.
Graham tắt đèn trong nhà Leeds đi rồi ra khỏi nhà qua ngả phòng bếp. Nơi đầu kia hàng hiên sau, ngọn đèn pin của anh rọi ra chiếc xe đạp cùng cái ổ chó bện bằng liễu gai. Ngoài sân sau có ngôi nhà cho chó, một cái chén nước của chó đặt cạnh bậc tam cấp.
Bằng chứng chỉ ra rằng gia đình Leeds bị tấn công bất ngờ trong khi ngủ.
Kẹp chiếc đèn pin vào giữa cằm và ngực, anh viết xuống ghi chú: Jack – con chó đâu rồi?
Graham lái xe về lại khách sạn. Anh phải tập trung lái, dù vào lúc bốn giờ sáng thế này xe cộ chẳng có là bao. Đầu anh vẫn còn đau nhức nên anh tìm một nhà thuốc mở cửa qua đêm.
Anh tìm ra được một tiệm trên phố Peachtree. Một tay bảo vệ nhếch nhác ngủ gà gật gần cửa vào. Một dược sĩ vận chiếc áo khoác cáu bẩn đến độ làm nổi bật cả đám gàu bán Bufferin cho Graham. Ánh sáng trong này chói đau cả mắt. Graham không thích mấy tay dược sĩ trẻ tuổi. Đám này cứ mang cái vẻ lôi thôi lếch thếch. Họ thường sầu thảm khó ưa và anh nghĩ là ở nhà bọn họ không được vui vẻ dễ chịu gì.
“Gì nữa không?” tay dược sĩ hỏi, mấy ngón tay đã chờn vờn trên phím máy tính tiền. “Gì nữa?”
Phòng F.B.I. ở Atlanta đã đặt chỗ cho anh trong một khách sạn ngớ ngẩn gần Trung tâm Peachtree mới xây của thành phố. Nơi này có những buồng thang máy bằng kính có hình giống những quả gòn để cho anh biết rằng lúc này đây anh đang thật sự ở trong thành phố.
Graham đi thang máy lên phòng của mình cùng hai tay khách tham dự hội nghị mang bảng tên in kèm chữ “Chào!” Hai người này bám vào tay vịn nhìn xuống sảnh khách sạn khi họ đi xuống.
“Nhìn qua bên kia bàn kìa – đó là Wilma và bọn họ vừa mới đi vào đấy,” tay to lớn hơn lên tiếng. “Quỷ tha ma bắt, tôi muốn xơi một em giống thế quá đi mất.”
“Chơi cho em lên bờ xuống ruộng luôn” tay còn lại nói.
Nỗi sợ hãi và cơn động đực, cùng sự tức giận với nỗi sợ hãi ấy.
“Này, ông biết vì sao đàn bà lại có chân không?”
“Vì sao?”
“Để không phải để lại vết nhờn như ốc sên ấy.”
Cửa thang máy mở ra.
“Đây phải không? Phải đây rồi” tay to con bảo. Gã lảo đảo va người vào mặt cửa khi bước ra ngoài.
“Thằng đui dắt thằng mù đây mà,” tay kia nói.
Graham đặt hộp các tông của mình lên bàn phấn trong phòng. Rồi anh lại bỏ nó vào ngăn kéo để không phải nhìn thấy nó. Anh đã ngấy vụ chết chóc trợn trừng lắm rồi. Anh muốn gọi cho Molly, nhưng còn sớm quá.
Một cuộc họp được lên lịch vào lúc tám giờ sáng tại Sở Cảnh sát Atlanta. Anh rồi sẽ chẳng có được gì nhiều để nói cho họ đây.
Anh sẽ cố ngủ. Đầu óc anh là một căn nhà cho thuê đang ầm ĩ những cuộc cãi vã quanh khắp, còn đâu đó ở ngoài hành lang kia người ta đang to tiếng đánh nhau. Anh đang tê dại trống rỗng, thế là anh lấy ly súc miệng rót hai lóng tay whisky, nốc cạn rồi đặt lưng xuống. Bóng tối đang đè xuống anh quá sát. Anh bật đèn phòng tắm rồi quay trở lại giường. Anh vờ như đang có Molly trong phòng tắm, đang chải tóc.
Những dòng biên bản trong bản khám nghiệm pháp y vang lên bằng chính giọng anh, dù anh chưa hề đọc chúng lên thành tiếng: “… phân đã vón… một vệt phấn rôm trên phía dưới chân phải. Vết gãy xương thành trong hốc mắt là do một mảnh kính vỡ chèn vào…”
Graham cố nghĩ về bãi biển vùng Sugarloaf Key, cố nghe ra tiếng sóng. Anh mường tượng ra bản thao tác của mình trong đầu và nghĩ đến hệ thống dẫn thoát cho cái âu tàu mà anh đang cùng Willy xây nên. Anh vừa khe khẽ hát bài “Whiskey River” vừa ra sức cho bài “Black Mountain Rag” vang lên trong đầu từ đầu đến cuối. Nhạc của Molly. Phần đệm ghita của Doe Watson thì không sao, nhưng cứ đến phần gian tấu là anh lạc tông. Molly đã thử dạy anh nhảy guốc ở sân sau và giờ cô đang nhấp nhô… và rốt cuộc anh cũng thiếp đi.
Anh thức dậy một giờ sau đấy, người cứng đờ đẫm mồ hôi, anh trông thấy chiếc gối còn lại lù lù hiện bóng trên nền ánh đèn từ phòng tắm và đấy là bà Leeds đang nằm cạnh anh, te tua tơỉ tả, hai mắt đứng tròng và dấu máu như hai gọng kính in trên thái dương và tai. Anh không thể quay đầu lại để đối mặt với bà ta. Trí não anh gào rú như chuông báo cháy, anh quờ tay sang nơi ấy và chạm phải lần vải khô ran.
Phản ứng xong, anh cảm nhận được chút nhẹ nhõm ngay lập tức. Anh đứng dậy, tim nện thình thịch, anh mặc vào cái áo phông khô ráo.
Anh quăng chiếc áo ướt vào bồn tắm. Anh không thể di chuyển sang phần giường còn khô. Thay vì thế anh trải khăn tắm lên phần giường anh đã vã mồ hôi ra rồi nằm lên đó, chống tay tựa lên đầu giường cùng ly rượu cứng đờ trong tay. Anh nốc hết một phần ba ly.
Anh cố tìm ra chuyện gì đó để nghĩ đến, bất cứ chuyện gì. Thôi thì nghĩ đến tiệm thuốc nơi anh mua Bufferin vậy; có lẽ đấy là trải nghiệm duy nhất không dính dáng đến chết chóc trong cả ngày.
Anh có thể nhớ lại mấy hiệu thuốc thời xưa với máy bán xô đa. Hồi nhỏ, anh nghĩ những hiệu thuốc cũ ấy có cái vẻ hơi hơi lén lút. Khi ta bước vào, ta luôn nghĩ đến việc mua bao cao su dù ta có cần hay không. Có những thứ trên quầy kệ mà ta không nên ngắm nghía quá lâu.
Trong hiệu thuốc nơi anh mua Bufferin, các phương tiện tránh thai gói trong bao bì in hình minh họa được đặt trong những hộp mi ca trên tường sau quầy tính tiền, lồng khung như tác phẩm nghệ thuật.
Anh thích hiệu thuốc và những thứ lặt vặt của chúng ở thời thơ ấu của anh hơn. Graham đã gần bốn mươi và mới bắt đầu cảm thấy tiếc nuối cái kiểu cách của thế giới thời ấy; nó như một chiếc neo phao trôi sau lưng anh trong trời bão tố.
Anh nghĩ đến Smoot. Già Smoot là người rót xô đa và là quản lý cho dược sĩ sở hữu hiệu thuốc trong vùng khi Graham còn bé. Smoot, uống rượu trong khi làm việc, quên không kéo mái bạt ra khiến đôi giày thể thao chảy ra trong cửa sổ trưng hàng. Smoot quên rút phích cắm ấm đun cà phê, thế là đội cứu hỏa được gọi đến. Smoot bán chịu kem ốc quế cho trẻ con.
Lần vi phạm trắng trợn nhất của ông ấy là đặt hàng những 50 con búp bê Kewpie từ một tay trình dược khi chủ hiệu thuốc đang đi nghỉ. Một tuần sau khi quay về, ông chủ đuổi việc Smoot. Rồi họ bày ra cuộc bán hạ giá búp bê Kewpie. Năm mươi con búp bê Kewpie được sắp thành hình bán nguyệt trong cửa sổ trưng hàng đằng trước để tất cả bọn chúng nhìn trừng trừng vào bất cứ ai đang nhìn vào.
Chúng mang đôi mắt xanh biêng biếc. Thật là một cách trưng bày ấn tượng và Graham đã nhìn một lúc. Cậu bé biết đấy chỉ là những con búp bê Kewpie, nhưng cậu có thể cảm nhận được sự tập trung chăm chú của chúng. Thật nhiều con búp bê đang giương mắt nhìn. Vài người dừng bước ngắm nghía chúng. Những con búp bê thạch cao, con nào con nấy đều có kiểu tóc ngu xuẩn loăn xoăn ép sát vào đầu, ấy vậy mà cái nhìn tập trung cao độ của chúng đã khiến mặt cậu bé râm ran.
Graham bắt đầu thư giãn chút ít trên giường. Búp bê Kewpie đang nhìn trừng trừng. Anh dợm uống một ngụm, chợt thở hắt ra rồi sặc đầy ra cả ngực. Anh quờ quạng tìm đèn trên bàn ngủ rồi lôi hộp đồ của mình trong ngăn kéo bàn phấn ra. Anh lấy ra biên bản khám nghiệm pháp y về ba đứa trẻ gia đình Leeds cùng những bản phác thảo hiện trường có đo tỷ lệ của mình về phòng ngủ chính rồi trải tất cả ra trên giường.
Đây là ba vết máu xiên xiên nơi góc tường, còn đây là những dấu trùng khớp trên thảm. Đây là kích thước của ba đứa bé. Anh trai, em gái, anh cả. Khớp. Khớp. Khớp.
Chúng thành một hàng ngang, ngồi dọc theo tường đối diện với giường ngủ. Khán giả. Khán giả đã chết. Và ông Leeds. Bị trói ngang ngực vào đầu giường. Được tạo tư thế trông như thể ông ta đang ngồi thẳng trên giường. Nhận lấy cái vết cắt ngang cổ đó, làm vấy bẩn phần tường bên trên đầu giường.
Họ đang quan sát gì? Chẳng gì cả; tất cả đều đã chết. Nhưng mắt vẫn mở. Họ đang theo dõi một màn trình diễn có diễn viên chính là kẻ điên và xác của bà Leeds, bên cạnh ông Leeds ngay trên giường. Khán giả. Tên điên có thể nhìn vào mặt mọi người.
Graham thắc mắc không biết hắn có thắp ngọn nến nào không. Ánh sáng chập chờn sẽ tái tạo về biểu cảm trên mặt mọi người. Không cây nến nào được tìm thấy. Có lẽ lần tới hắn sẽ nghĩ đến việc thắp nến…
Mối liên kết nhỏ đầu tiên với kẻ sát nhân này ngứa ngáy châm chích như đỉa. Graham cắn tờ giấy và nghĩ.
Sao mày lại di chuyển họ? Sao mày không để yên họ như thế? Graham hỏi. Có điều mày không muốn tao biết về mày đây. Sao chứ, có điều mày thấy xấu hổ đây mà. Hay có phải là điều mà mày không kham nổi nếu để cho tao biết?
Mày có mở mắt những người đó không?
Bà Leeds đáng yêu quá, phải không nào? Mày bật đèn lên sau khi cắt cổ ông Leeds để bà Leeds có thể nhìn thấy ông ấy chết dần chứ gì?
Thật điên cả tiết khi phải mang găng tay khi mày chạm vào bà ấy, đúng không?
Có bột phấn trên chân bà ấy.
Trong phòng tắm thì không.
Dường như có ai đó khác đang nói lên hai chi tiết cuối cùng kia bằng giọng đều đều.
Mày đã tháo găng ra, phải không? Bột phấn từ chiếc găng tay cao su rơi ra khi mày kéo găng đi để chạm vào bà ấy, CHỨ GÌ NỮA, THẰNG CHÓ ĐẺ? Mày vuốt ve bà ấy bằng hai tay trần rồi mày lại đeo găng vào để lau sạch bụi khỏi bà ta. Nhưng khi găng được cởi ra, MÀY CÓ MỞ MẮT NHỮNG NGƯỜI ĐÓ RA KHÔNG?
Jack Crawford trả lời cuộc gọi của anh sau hồi chuông thứ năm. Cả đêm ông đã trả lời vô khối cuộc điện thoại nhưng ông vẫn không lúng túng gì.
“Jack, tôi đây”
“Ừ Will.”
“Price vẫn còn làm ở Latent Prints chứ?”
“Còn. Cậu ta không đi ra hiện trường nhiều nữa. Đang làm việc lên danh lục phân loại mẫu vân tay đơn.”
“Tôi nghĩ ông ấy phải đến Atlanta thôi.”
“Sao vậy? Chính cậu bảo cái tay dưới này giỏi mà.”
“Anh ta giỏi thật, nhưng vẫn không bằng Price.”
“Cậu muốn cậu ta làm gì? Phải tìm kiếm ở đâu nào?” “Móng tay và móng chân của bà Leeds. Tất cả được sơn, bề mặt trơn bóng đấy. Cả giác mạc của mọi người nữa. Tôi nghĩ là hắn đã tháo găng tay ra đấy Jack.”
“Chúa ơi, Price sẽ phải làm hộc tốc thôi” Crawford bảo. “Ngay chiều nay đã tổ chức lễ tang rồi.”