Rồng Đỏ

Chương 32
Trước
image
Chương 33
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

Cảnh sát Chicago làm việc dưới con bão truyền thông, có cả một bản tin thời sự hằng đêm “đếm ngược” đến ngày rằm kế tiếp. Còn mười một ngày nữa,

Các gia đình ở Chicago khiếp đảm.

Cùng lúc ấy, lượng người xem tăng cao trong những suất phim kinh dị mà lẽ ra đã hết khách sau một tuần chiếu tại các điểm chiếu phim ngoài trời. Sự mê hoặc và kinh hoàng. Tay nhà buôn từng nổi đình nổi đám trên thị trường punk rock với chiếc áo thun mang dòng chữ “Tiên Răng” giờ lại cho ra một dòng sản phẩm khác với dòng chữ “Rồng Đỏ là Tình Một Đêm”. Doanh số được chia đều cho cả hai loại.

Còn bản thân Jack Crawford phải xuất hiện trong buổi họp báo với các sĩ quan cảnh sát sau tang lễ. Ông ta đã nhận lệnh từ cấp trên là phải làm cho sự hiện diện của cảnh sát liên bang được rõ ràng hơn nữa, nhưng ông đã không làm cho nó được nghe đến nhiều hơn, vì ông ta đã chẳng nói gì.

Khi các cuộc điều tra với lực lượng hùng hậu không có được nhiều thông tin để khai thác, chúng thường có khuynh hướng đào bới chính mình, khai thác đi khai thác lại cùng một nền tảng, băm vằm nát bét. Chúng khoác vào hình dáng quây tròn của một cơn cuồng phong hay của con số 0.

Graham đi đến đâu cũng nhìn thấy cảnh sát điều tra, máy quay phim, cảnh sát thường phục vội vội vàng vàng và tiếng bộ đàm lè rè không ngừng nghỉ. Anh cần được tĩnh lặng.

Crawford, cau có từ cuộc họp báo đi ra, tìm thấy Graham vào lúc chiều tà trong sự tĩnh lặng của căn phòng bồi thẩm đoàn không được dùng đến ở tầng bên trên văn phòng ủy viên Công tố.

Ánh đèn sáng choang tỏa sát xuống chiếc bàn đoàn bồi

thẩm phủ dạ xanh lá cây nơi Graham trải ra bao nhiêu giấy tờ hình ảnh. Anh đã cởi bỏ áo khoác cùng cà vạt và đang ngồi thù lù trên ghế nhìn trừng trừng vào hai tấm ảnh. Bức ảnh gia đình Leeds lồng khung đặt ngay trước mặt anh và bên cạnh nó, trên tấm bản kê dựng tựa vào bình đựng nước, là hình của gia đình Jacobi.

Những tấm hình của Graham khiến Crawford nhớ đến bàn thờ tổ gấp lại được của một võ sĩ đấu bò, luôn sẵn sàng để được dựng lên trong bất cứ phòng khách sạn nào. Không thấy có hình của Lounds. Ông đồ rằng Graham chưa mảy may nghĩ đến vụ của Lounds. Ông không cần phải thêm rắc rối với Graham.

“Trong này giống phòng bi-a quá” Crawford bảo.

“Anh đã tiêu diệt hết bọn chúng chưa?” Graham trông tái xanh nhưng tỉnh táo. Anh đang cầm hộp nước cam trong tay.

“Chúa ơi.” Crawford ngồi phịch xuống ghế. “Ở ngoài kia mà anh có suy nghĩ thì giống như là có đứng đái trên tàu vậy.”

“Có tin gì không?”

“Giám đốc sở đang vả cả mồ hôi trả lời một câu hỏi và đưa tay gãi bìu trên truyền hình kìa, đó là điều đáng chú ý nhất mà tôi thấy. Cứ xem vào lúc 6 và 11 giờ đi nếu cậu không tin.”

“Dùng chút nước quả không?”

“Thôi tôi thà uống dây kẽm gai còn hơn.”

“Tốt thôi. Thế thì còn nhiều hơn cho tôi.” Khuôn mặt Graham trũng sâu. Đôi mắt quá sáng. “Vụ xăng thế nào?”

“Cầu Chúa ban phước lành cho Liza Lake. Toàn vùng Chicago có 41 trạm phân phối lẻ của Servco Supreme. Quân của Osbome đã rà hết mấy chỗ đó rồi, kiểm tra lượng xăng bán ra theo thùng cho những người lái xe tải và xe thùng. Chưa thu được gì cả, nhưng mọi phiên trực vẫn chưa kết thúc. Servco có 186 trạm bán khác nữa – rải rác khắp 8 bang. chúng ta đã yêu cầu sự trợ giúp của các đơn vị hành pháp địa phương. Sẽ mất một thời gian. Nếu Chúa có thương tôi thì tên sát nhân đã thanh toán bằng thẻ tín dụng. Thế là có cơ hội.”

“Sẽ không đâu nếu như hắn có thể hút xăng từ xe khác, nếu vậy thì chẳng có cơ hội gì đâu.”

“Tôi đã yêu cầu ông giám đốc đừng đề cập đến chuyện Tiên Răng có thể đang sinh sống trong khu vực này. Người dân ở đây đã thấy sợ lắm rồi. Nếu còn nói cho họ thêm chi tiết ấy, thì tối nay cả nơi này sẽ nghe như là Hàn Quốc khi lũ say về nhà.”

” Anh vẫn cho rằng hắn ở gần đây à?”

“Cậu thì không sao? Dễ hình dung quá mà, Will.” Crawford nhặt báo cáo khám nghiệm tử thi của Lounds lên rồi nhìn vào đấy qua cặp kính hình khuyên.

“Vết bầm trên đầu gã này cũ hơn những vết thương trong miệng. Có trước từ chừng năm đến tám tiếng, họ không chắc. Rồi những vết thương trong miệng Lounds cũng đã được vài giờ khi họ đem gã vào bệnh viện. Các vết thương cũng bị đốt phỏng, nhưng thứ trong miệng gã thì người ta có thể xác định được. Gã còn sót lại chút thuốc mê trong – quỷ thần ơi, đâu đó trong tiếng khò khè của mình. Cậu có nghĩ gã ta đang bất tỉnh khi Tiên Răng cắn gã không?”

“Không. Hắn sẽ muốn Lounds phải còn tỉnh.”

“Tôi cũng cho là thế. Được rồi, hắn hạ gã bất tỉnh bằng một cú vào đầu – đấy là trong ga ra. Hắn phải giữ cho Lounds im lặng cho đến khi tìm được cho mình chỗ nào mà tiếng ồn sẽ không gây ra phiền phức gì, nên hắn dùng thuốc mê. Rồi mang Lounds quay lại đây chỉ vài tiếng sau khi cắn.”

“Hắn cũng đã có thể làm hết mọi chuyện ấy trong thùng xe tải của hắn, đậu đâu đó ngoài kia,” Graham nói.

Crawford chà chà mấy ngón tay vào hai bên sống mũi, khiến giọng ông nghe rè rè như tiếng loa. “Cậu quên chi tiết về mấy bánh xe lăn rồi. Bev lấy được hai loại lông thảm, len và sợi tổng hợp. Sợi tổng hợp là từ trong xe, có thể thế, nhưng cậu có khi nào thấy thảm len ở trong xe chưa? Cậu đã thuê nhiều xe, cậu đã thấy được bao nhiêu tấm thảm len trong xe rồi? Ít vô cùng. Thảm len là ở trong nhà đấy Will. Với lại bụi cùng mốc ẩm là từ một nơi tối tăm nơi cất chiếc xe lăn, một tầng hầm nền đất.”

“Có lẽ thế.”

“Giờ thì nhìn xem này.” Crawford lôi từ cặp xách ra tấm bản đồ đường bộ Rand McNally. Ông đã khoanh vòng trên bản đồ về “Tổng số dặm đường và thời gian chạy xe tại Hoa Kỳ”. “Freddy đã mất tích hơn mười lăm tiếng một chút và thương tích của gã xảy ra trong khoảng thời gian này. Tôi sẽ đưa ra vài giả định, tôi không thích làm thế đâu nhưng mà thôi đây này – Này cậu đang cười cái gì thế?”

“Tôi chỉ nhớ lại lúc anh chỉ huy mấy cuộc tập huấn hiện trường ở Quantico – khi có tay thực tập viên bảo với anh rằng cậu ta giả định điều gì ấy.”

“Tôi chẳng nhớ. Đây là…”

“Anh bắt cậu ta viết từ “ASSUME” (giả định) lên bảng. Anh lấy viên phấn rồi bắt đầu vừa gạch chân từ đó vừa quát vào mặt cậu ta. “Khi cậu ASSUME nghĩa là cậu biến cả U (cậu) lẫn ME (tôi) thành ASS (cái mông) anh bảo cậu ta thế, theo tôi nhớ là vậy.”

“Cậu ta cần được đạp một phát vào mông cho tỉnh ngộ thôi, giờ thì nhìn đây này. Tưởng tượng xem hắn gặp phải tình trạng giao thông của Chicago chiều thứ Ba, đi ra khỏi thành phố cùng Lounds. Trừ ra vài ba tiếng để làm trò với Lounds tại địa điểm nơi hắn mang gã ta đến, và rồi thời gian lái xe ngược lại. Hắn đã không thể lái hơn sáu tiếng ra khỏi Chicago. OK, cái vòng tròn khoanh quanh Chicago này là khoảng cách sáu tiếng lái xe. Xem đây, khoanh vùng hơi uốn lượn vì có nhiều đường nhanh hơn đường khác.”

“Có thể hắn đã chỉ ở lại đây.”

“Đúng rồi, nhưng đây là khoảng cách xa nhất mà hắn có thể đi đến.”

“Vậy là anh thu hẹp phạm vi tại Chicago, hay là trong khoanh vùng bao gồm Milwaukee, Madison, Dubuque, Peoria, St. Louis, Indianapolis, Cincinnati, Toledo và Detroit, sơ sơ vậy thôi.”

“Còn hơn nữa ấy chứ. Chúng ta biết hắn đã có được tờ Tattler rất nhanh. Chắc là khoảng tối thứ Hai.”

“Hắn vẫn có thể làm thế tại Chicago.”

“Tôi biết, nhưng một khi cậu đi ra khỏi thành phố rồi thì tại nhiều nơi tờ Tattler chưa được bán vào tối thứ Hai. Đây là danh sách từ bộ phận phát hành của Tattler này, những nơi mà

Tattler được vận chuyển bằng đường không hoặc bằng xe tải đến trong phạm vi khoanh vùng vào tối thứ Hai. Thấy chưa, như thế là còn lại Milwaukee, St. Louis, Cincinnati, Indianapolis và Detroit. Báo được đưa đến sân bay và có lẽ có chín mươi sạp báo mở cửa suốt đêm, không tính những sạp ở trong Chicago nhé. Tôi đang cho nhân viên hiện trường đến kiểm tra những chỗ ấy. Biết đâu một người bán báo nào đấy có nhớ được một khách hàng kỳ quái vào tối thứ Hai.”

“Có thể. Chiêu hay đấy, Jack.”

Rõ ràng là trí óc của Graham đang ở đâu đó khác.

Nếu Graham là một nhân viên bình thường, thì hẳn Crawford đã dọa thuyên chuyển anh đến quần đảo Aleut suốt đời rồi. Nhưng ông ta chỉ nói, “Em tôi mới gọi chiều nay. Molly đã rời khỏi nhà cậu ta, cậu ta bảo thế.”

“Vâng.”

“Chắc là đến nơi nào đó an toàn chứ hử?”

Graham biết rõ Crawford đã biết chính xác Molly đi đâu rồi.

“Nhà ông bà nội của Willy.”

“Ừ, họ sẽ vui lắm khi được gặp thằng bé.” Crawford chờ đợi.

Graham chẳng đưa ra bình luận gì.

“Mọi chuyện đều ổn nhỉ, tôi hy vọng vậy.”

“Tôi đang làm việc đây này, Jack. Đừng lo về chuyện kia. Không có gì đâu, nghe này, chỉ là cô ấy ở đấy cứ bị hoảng.”

Graham lôi ra một gói dẹt được cột dây từ dưới chồng ảnh tang lễ rồi bắt đầu gỡ gỡ nút thắt.

“Gì thế?”

“Từ Byron Metcali, luật sư của Jacobi. Brian Zeller gửi sang. Không sao đâu.”

“Chờ chút, để tôi xem đã.” Crawford lật ngược lật xuôi gói hàng giữa mấy ngón tay lông lá cho đến khi tìm thấy dấu đóng và chữ ký của S.F. “Semper Fidelis” Aynesworth, trưởng bộ phận Cháy nổ của F.B.IV chứng tỏ rằng gói hàng này đã được xét nghiệm huỳnh quang.

“Luôn luôn kiểm tra. Luôn luôn kiểm tra.”

“Tôi luôn kiểm tra mà Jack.”

“Chester mang thứ này vào cho cậu à?”

“Cậu ta có đưa dấu đóng cho cậu thấy trước khi trao nó cho cậu không?”

“Cậu ta kiểm qua rồi chìa cho tôi xem.”

Graham cắt dây buộc. “Là những bản sao của tất cả giấy tờ di sản thừa kế nhà của gia đình Jacobi. Tôi đã yêu cầu Metcali gửi sang cho tôi – chúng ta có thể so sánh với giấy tờ của nhà Leeds khi chúng được gửi đến.”

“Chúng ta có luật sư lo việc này mà.”

“Tôi cần nó. Tôi không biết gì về gia đình Jacobi cả, Jack à. Họ là dân mới chuyển đến. Tôi đến Birmingham muộn tận một tháng và đồ đạc của họ đã tứ tán hết cả và biến mất rồi. Tôi đã có được chút cảm nhận về gia đình Leeds. Nhưng gia đình Jacobi thì không. Tôi cần phải biết họ. Tôi muốn nói chuyện với những người họ quen biết ở Detroit và tôi muốn có thêm vài ba ngày nữa ở Birmingham.”

“Tôi cần cậu ở đây.”

“Nghe này, Lounds là một vụ trừ khử rõ ràng. Chúng ta đã khiến hắn phát điên với Lounds. Mối dây liên hệ duy nhất đến Lounds là thứ mà chúng ta tạo ra. Vụ Lounds chỉ có rất ít bằng chứng có giá trị và cảnh sát đang xử lý. Lounds chỉ là một cơn khó chịu cho hắn, nhưng gia đình Leeds và Jacobi là những chuyện hắn cần. Chúng ta phải tìm được mối liên hệ giữa hai gia đình này. Nếu muốn bắt được hắn thì đấy là cách chúng ta sẽ làm.”

“Vậy là cậu đang có giấy tờ về gia đình Jacobi để sử dụng ở đây rồi,” Crawford nói. “Cậu đang tìm gì chứ? Những thứ như thế nào?”

“Bất cứ thứ quái quỷ nào, Jack ạ. Ngay lúc này đây, tiền khấu trừ thuế để sử dụng cho y tế.” Graham lôi từ túi đồ ra một mẫu Thuế Nhà đất của I.R.S. (sở thuế vụ Hoa Kỳ) “Lounds đã ngồi trong xe lăn. Y tế. Valeris Leeds từng có cuộc phẫu thuật sáu tuần trước khi bà ta chết – còn nhớ trong nhật ký của bà ấy không? Một túi nang nhỏ trong ngực. Lại là y tế. Tôi đang thắc mắc liệu bà Jacobi cũng có phẫu thuật gì đấy không.”

“Tôi nhớ chẳng thấy nói gì đến phẫu thuật trong báo cáo xét nghiệm tử thi cả.”

“Không, nhưng biết đâu có thể là thứ gì đấy không được thể hiện ra. Tiền sử bệnh lý của bà ta phân ra giữa Detroit và Birmingham. Có thể có gì đấy đã thất lạc trong lúc ấy. Nếu bà ta từng phẫu thuật gì, thì sẽ có đơn xin giảm thuế và có thể là đơn đòi bảo hiểm nữa.”

“Một tên hộ lý lưu động nào đấy, cậu đang nghĩ thế sao? Làm việc tại cả hai nơi – Detroit hoặc Birmingham và Atlanta.”

“Nếu anh từng có thời gian ở trong bệnh viện tâm thần thì anh sẽ thạo nghề thôi. Anh có thể đạt chuẩn làm hộ lý, rồi khi ra khỏi bệnh viện anh có thể xin được việc làm hộ lý,” Graham nói.

“Ăn tối không?”

“Tôi sẽ đợi thêm tí nữa. Ăn xong là tôi lại đần ra.”

Vừa bỏ đi, Crawford vừa nhìn lại Graham từ lối cửa vào âm u. Ông không quan tâm mình thấy gì. Mấy bóng đèn treo trên kia làm sâu thêm những vệt trũng trên mặt Graham khi anh nghiên cứu với các nạn nhân đang trừng trừng nhìn lại anh từ mấy tấm ảnh. Căn phòng bốc mùi tuyệt vọng.

Liệu đưa Graham ra ngoài tiền tuyến trở lại sẽ có ích hơn chăng cho vụ này? Crawford không thể nào để cho anh dốc kiệt lực ở trong này không vì gì cả được. Nhưng nếu vì chút gì đó thì sao?

Bản năng điều hành kiệt xuất của Crawford không phải do lòng thương hại tôi luyện mà ra. Bản năng ấy bảo ông ta nên để yên cho Graham.

Trước
image
Chương 33
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!