Rồng Đỏ

Chương 3
Trước
image
Chương 4
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

“Tôi nghĩ hắn phải chạm vào bà ấy,” vừa gặp Graham đã nói.

Crawford đưa cho anh lon Coca từ máy trong Sở Cảnh sát Atlanta. 7 giờ 50 sáng.

“Chắc rồi, hắn di chuyển bà ta mà,” Crawford đáp. “Trên hai cổ tay và sau kheo chân bà ấy có vết nắm. Nhưng mỗi một vân tay trong nơi ấy đều là từ găng tay bề mặt kín. Mà đừng lo, Price đang ở đây. Thằng khỉ già cáu kỉnh. Lúc này cậu ta đang trên đường đến nhà tang lễ. Nhà xác giao trả những xác chết vào tối qua, nhưng bên nhà tang lễ chưa động gì đến cả. Cậu trông đuối lắm đấy. Có ngủ được chút nào không?”

“Chắc chừng một tiếng. Tôi nghĩ hắn phải chạm vào bà ấy bằng chính tay hắn.”

“Hy vọng cậu đúng, nhưng bên phòng pháp chứng Atlanta thề rằng hắn mang loại găng tay phẫu thuật suốt quãng thời gian đó,” Crawford bảo. “Mấy mảnh gương có mấy cái dấu găng nhẵn thín ấy đấy. Có dấu ngón trỏ ở mặt sau cái mảnh hắn chêm vào âm hộ, còn mặt trước có dấu ngón cái bị nhòe.”

“Sau khi đã đặt mảnh gương vào vị trí, hắn còn chùi bóng nó, để hắn có thể soi thấy cái bản mặt khốn kiếp của hắn được rõ ràng” Graham nóỉ.

“Mảnh trong miệng bà Leeds mờ máu. Cả mảnh trong mắt cũng thế. Hắn không hề tháo găng tay ra.”

“Bà Leeds là một phụ nữ xinh đẹp” Graham bảo. “Ông đã trông thấy ảnh gia đình rồi, đúng không? Tôi thì tôi sẽ muốn chạm vào làn da bà ấy trong một tình huống gần gụi, ông không muốn sao?”

“Gần gụi á?” vẻ kinh tởm lộ ra trong giọng nói của ông ta trước khi Crawford kịp ngăn lại. Đột nhiên ông hóa ra bận bịu lục lọi túi áo túi quần tìm tiền lẻ.

“Gần gũi – họ đã gần gũi nhau. Mọi người khác đều đã chết. Hắn có thể để cho mắt mọi người nhắm hay mở, tùy hắn thích.”

“Bất cứ kiểu nào hắn thích” Crawford nói. “Dĩ nhiên là người ta đã kiểm qua da bà ta để tìm dấu tay. Chẳng có gì. Nhưng quả là họ có thu được dấu một bàn tay xòe rộng từ cổ bà ấy.”

“Biên bản báo cáo không thấy đề cập gì việc khám nghiệm mấy móng tay.”

“Khi người ta lấy cáu dưới móng tay, tôi đã trông đợi móng tay bà ta sẽ rất nhiều cáu. Nhưng trong phần cáu chỉ có những gì ở nơi bà ấy đã dùng móng bấu xước lòng bàn tay chính mình. Bà ấy chẳng hề cào hắn”

“Bà ta có bàn chân thật đẹp,” Graham nhận định.

“Ừ ừm. Ta đi lên lầu nào,” Crawford bảo. “Các tổ sắp họp lại rồi đấy.

Jimmy Price có thật lắm dụng cụ – hai va li nặng trịch cộng thêm túi camera và chân máy. Ông lỉnh kỉnh đi qua cửa trước của nhà tang lễ Lombard thành phố Atlanta. Price là ông già ốm o và tinh thần hài hước của ông lại chẳng được cải thiện là mấy qua một chuyến taxi dài dặc từ sân bay về trong giờ cao điểm buổi sáng.

Một anh chàng non choẹt lăng xăng đầu tóc sấy ép lùa Price vào văn phòng trang trí hai màu vàng mơ và vàng kem. Bàn giấy trống trơn chỉ có mỗi bức điêu khắc mang tên Đôi tay cầu nguyện.

Price đang săm soi đầu mấy ngón tay trên bàn tay cầu nguyện ấy thì ông Lombard thân chinh bước vào. Lombard kiểm tra giấy tờ ủy nhiệm của Price thật kỹ lưỡng.

“Cái văn phòng hay cơ quan hay gì gì đấy ở Atlanta của ông đã gọi cho tôi, tất nhiên, thưa ông Price. Nhưng tối qua chúng tôi đã phải nhờ cảnh sát di dời một gã đáng ghét đang cố lấy ảnh cho tờ The National Tattler, nên tôi chỉ là đang cẩn thận mà thôi. Tôi chắc là ông hiểu mà. Ông Price này, mấy xác chết

chỉ mới được giao trả cho chúng tôi vào khoảng 1 giờ sáng nay trong khi đó 5 giờ chiều nay đã là tang lễ rồi. Đơn giản là chúng tôi không thể trì hoãn lại được.”

“Việc này sẽ không mất thời gian lắm đâu,” Price đáp. “Tôi cần một trợ lý thông minh ở mức chấp nhận được, nếu mà ông có. Ông đã chạm vào các xác chết chưa vậy, ông Lombard?”

“Chưa.”

“Tìm xem có ai đã chạm vào chưa. Tôi sẽ cần phải lấy dấu tay của tất cả những người ấy.”

Buổi họp chỉ thị buổi sáng của các cảnh sát điều tra về vụ gia đình Leeds cơ bản chỉ liên quan đến răng.

Trưởng phòng Cảnh sát Điều tra Atlanta, R. J. (Buddy) Springfield, một người vạm vỡ mặc sơ mi xắn tay, đứng cạnh cửa ra vào cùng bác sĩ Dominic Princi trong khi hai mươi ba cảnh sát điều tra kéo vào phòng họp.

“Rồi, mấy cậu, nhe răng ra cười khi đi ngang qua đây nào” Springfield bảo. “Nhe răng ra cho bác sĩ Princi xem nào. Đúng thế, ta phải xem tất. Trời đất, Sparks, đấy là lưỡi cậu hay cậu đang nuốt phải con sóc thế? Di chuyển tiếp đi.”

Một hình mặt cắt đằng trước của một bộ răng, cả hàm trên lẫn hàm dưới, được đính vào bản điểm tin trước phòng triển khai. Hình ảnh này gợi cho Graham nhớ đến một dải phim in hình răng trên quả bí đèn lồng Halloween trong một cửa hiệu rẻ tiền. Anh cùng Crawford ngồi ở cuối phòng khi các thanh tra yên vị tại mấy chiếc bàn học.

Ủy viên An toàn Công cộng thành phố Atlanta, Gilbert Lewis, cùng sĩ quan phụ trách quan hệ công chúng của mình ngồi trên ghế xếp cách xa đám cảnh sát điều tra. Một giờ nữa Lewis sẽ phải đương đầu với một buổi họp báo.

Springfield chủ trì cuộc họp.

“Được rồi, chúng ta tạm ngưng mấy trò vớ vẩn nhé. Nếu mọi người có đọc báo cáo sáng nay, thì các cậu đã biết là tiến triển chỉ bằng không”.

“Việc gõ cửa phỏng vấn từng nhà sẽ tiếp tục trong bán kính bốn khối nhà quanh khu vực hiện trường. Bên quản lý nhân dạng và lý lịch tư pháp R&I đã cho chúng ta mượn hai nhân viên giúp kiểm tra chéo những dữ liệu đặt vé máy bay và thuê xe tại Birmingham và Atlanta.

“Chi tiết về sân bay và khách sạn sẽ được rà soát lại ngày hôm nay. Phải, làm lại ngay hôm nay. Chặn từng nhân viên dọn phòng và tiếp viên cũng như nhân viên lễ tân. Hắn phải chùi rửa ở đâu đó và có thể để lại mớ hỗn độn. Nếu các cậu tìm được ai đó từng phải dọn một mớ hỗn độn, tra cho ra bất cứ kẻ nào ở trong phòng đó, niêm phong phòng lại, gọi điện thoại ngay xuống phòng giặt ủi. Lần này chúng ta có chút manh mối để các cậu đem cho người ta xem này. Bác sĩ Princi?”

Bác sĩ Dominic Princi, trưởng thanh tra giám định y khoa của hạt Fulton, bước lên trước đứng ngay dưới hình vẽ hàm răng. Ông ta giơ lên một khuôn đúc mẫu răng.

“Thưa các anh, đây là thứ tương tự răng của kẻ tình nghi này. Viện Smithsonian ở Washington đã tái tạo chúng từ bản dấu hằn chúng ta lấy được từ những vết cắn trên người bà Leeds cùng một vết cắn rất rõ trên miếng phó mát từ tủ lạnh nhà Leeds,” Princi nói.

“Như các anh thấy, hắn có răng kế răng cửa nhỏ hơn bình thường – những cái răng ở đây và đây.” Princi chỉ vào khuôn răng trong tay, rồi chỉ lên sơ đồ bên trên mình. “Những răng này xiên xẹo còn răng cửa này bị mất một góc. Răng cửa còn lại thì bề mặt bị xước, đây này. Trông giống như “rãnh thợ may”, là vùng mòn vẹt đi khi ta cắn chỉ.”

“Thằng chó đẻ sứt răng” ai đó lầm bầm.

“Làm sao ông biết chắc được rằng thủ phạm là kẻ đã cắn miếng phó mát đó vậy Bác?” một cảnh sát cao ráo ngồi hàng đầu hỏi.

Prind không thích bị gọi là “Bác”, nhưng ông cho qua. “Nước bọt lấy được từ phó mát và từ những vết thương do bị cắn trùng với nhóm máu” ông đáp. “Răng và nhóm máu của nạn nhân lại không trùng.”

“Được rồi, Bác sĩ,” Springfield bảo. “chúng tôi sẽ phát ảnh mấy cái răng ra cho mọi người.”

“Thế còn việc đưa cho cánh báo chí thì sao?” viên sĩ quan quan hệ công chúng, Simpkins, đang cất tiếng. “Đại loại như là “mọi-người-thấy-mấy-cái-răng-này-bao-giờ-chưa” ấy.”

“Tôi thấy việc này không có gì phải cản,” Springfield nói. “Thấy sao hả, ông ủy viên?”

Lewis gật đầu.

Simpkins chưa chịu thôi. “Bác sĩ Princi này, phóng viên sẽ hỏi tại sao mất những bốn ngày mới có được bản răng mà ông đang có đây. Và tại sao mọi việc cứ phải được tiến hành tại Washington.”

Đặc vụ Crawford ngắm nghía nút bấm trên cây bút bi của mình.

Princi mặt mày đỏ lựng nhưng giọng vẫn bình tĩnh. “Các vết cắn trên da thịt bị biến dạng khi xác được di chuyển, anh Simpson…”

“Simpkins.”

“Ừ thì Simpkins. Chúng tôi không thể làm ra thứ này nếu chỉ dựa vào các vết cắn trên người nạn nhân. Thế mới cho thấy tầm quan trọng của phó mát. Phó mát tương đối rắn chắc, nhưng đúc khuôn từ đấy thì hơi khó. Trước hết anh phải phủ dầu cho nó để triệt tiêu độ ẩm khỏi dụng cụ đúc khuôn. Thường thì anh chỉ làm được một lần một. Viện Smithsonian trước đây từng làm việc này cho phòng thí nghiệm phân tích tội phạm P.B.I. Họ được trang bị tốt hơn, chúng ta thì không. Còn gì nữa?”

“Vậy nếu nói việc chậm trễ này là do F.B.I. chứ không phải chúng ta gây ra thì có hợp lý không?”

Princi quay sang anh này. “Việc hợp lý để nói, thưa anh Simpkins, là một thanh tra liên bang, Đặc vụ Crawford, hai ngày trước đã tìm thấy miếng phó mát trong tủ lạnh – sau khi người của các anh đã rà soát khắp rồi. Ông ấy đã tiến hành việc giám định theo yêu cầu của tôi. Sẽ hợp lý mà nói rằng tôi thấy nhẹ người vì không phải một trong các anh đã cắn cái miếng phó mát khốn kiếp ấy.”

Lewis xen vào, giọng khàn của ông ta oang oang khắp phòng họp. “Không ai chất vấn sự nhận định của ông cả, bác sĩ Princi à. Này Simpkins, chúng ta không cần châm ngòi một cuộc đấu đá chọc điên F.B.I. Hợp tác vui vẻ đi.”

“Tất cả chúng ta đều theo đuổi cùng một chuyện,” – Springfield nói. “Jack, các anh có muốn thêm vào gì không?”

Crawford tiếp lấy diễn đàn. Những gương mặt ông nhìn thấy đây không phải hoàn toàn thân thiện. Ông phải làm gì đấy mới được.

“Tôi chỉ muốn làm rõ vài điều. Nhiều năm trước đã có lắm sự kình địch ganh đua về việc ai là người phá án. Mỗi bên, liên bang và địa phương, đều không nhượng bộ cho bên còn lại. Việc đó tạo kẽ hở cho tội phạm lọt qua. Thời nay đấy không phải là chính sách của Cục nữa rồi, cũng không phải là tiêu chí của tôi. Tôi chẳng quan tâm quái gì đến ai là người phá án. Cả thanh tra Graham cũng không. Anh ấy ngồi ở phía cuối kia kìa, nếu các anh có ai đang thắc mắc. Nếu kẻ đã gây ra chuyện này có bị xe tải rác cán chết đi nữa, tôi sẽ vẫn mừng như thường, miễn là cái xe tống hắn ra khỏi đường phố. Tôi nghĩ các anh cũng có cùng cảm nhận như vậy.”

Crawford nhìn một lượt đám cảnh sát điều tra và hy vọng họ đã dịu đi. Ông hy vọng họ sẽ không giấu đạn. Lewis nói với ông.

“Thanh tra Graham trước đây từng tham gia những vụ kiểu như vậy.”

“Đúng vậy.”

“Anh có thể thêm vào gì không, anh Graham, gợi ý thêm giấy?”

Crawford nhướn mày với Graham.

“Anh vui lòng lên trước này đi nhé?” Springfield bảo.

Graham ước gì mình đã có dịp nói chuyện riêng với Springfield. Anh không muốn nói trước cả phòng. Nhưng rồi anh cũng đi lên.

Người dãi dầu cháy nắng, Graham trông không giống như một điều tra viên liên bang. Springfield nghĩ anh chàng này trông giống một tay thợ sơn nhà phải mặc vest để ra tòa hơn.

Đám cảnh sát nhấp nhổm. Khi Graham quay xuống đối mặt với cả phòng, đôi mắt xanh lạnh lẽo của anh mở to thảng thốt trên gương mặt rám nâu.

“Chỉ vài điều thôi,” anh nói. “chúng ta không thể chắc rằng hắn là cựu bệnh nhân tâm thần hay là kẻ có tiền án phạm tội tình dục. Khả năng rất cao là hắn không có bất cứ tiền sử nào như thế cả. Mà nếu có, thì khả năng là tội đột nhập gia cư bất hợp pháp hơn là tội tấn công tình dục.

“Hắn có thể có tiền sử cắn người trong những vụ tấn công ít nghiêm trọng hơn – ẩu đả trong quán hay là ngược đãi trẻ em chẳng hạn. Sự giúp đỡ hiệu quả nhất để xác minh điều này sẽ đến từ nhân viên phòng cấp cứu và những người chịu trách nhiệm về phúc lợi cho trẻ em.

“Bất cứ vụ cắn tệ hại nào mà họ có thể nhớ được đều đáng để kiểm tra, không cần biết ai là người bị cắn hay họ đã kể chuyện đó xảy ra thế nào. Tôi chỉ có thể nói đến thế thôi.”

Viên cảnh sát cao ráo ngồi hàng đầu giơ tay lên rồi nói luôn.

“Nhưng tính đến nay thì hắn chỉ cắn phụ nữ thôi, đúng không?”

“Chúng ta chỉ biết có thế. Nhưng mà hắn cắn nhiều lắm. Sáu vết rất sâu trên người bà Leeds, tám vết trên bà Jacobi. Như thế là nhiều hơn trung bình lắm rồi.”

“Trung bình là bao nhiêu?”

“Trong một vụ giết người xâm phạm tình dục thì là ba. Hắn thích cắn.”

“Phụ nữ.”

“Đa phần trong những vụ tấn công tình dục thì một vết cắn sẽ có điểm bầm ngay chính giữa, dấu hiệu của việc mút. Mấy vết cắn này lại không có. Bác sĩ Princi có nhắc đến điều này trong báo cáo pháp y, còn tôi đã trông thấy trong nhà xác. Không có dấu mút. Với hắn thì việc cắn có lẽ là một hình thức giao đấu cũng như hành vi tình dục vậy”

“Khá mơ hồ” tay cảnh sát nói.

“Đáng để kiểm tra” Graham bảo. “Bất cứ vụ cắn nào cũng đáng để kiểm tra hết. Người ta nói dối về việc chuyện ấy xảy ra thế nào. Bố mẹ đứa trẻ bị cắn sẽ bảo rằng do một con thú nào đấy gây ra rồi để cho đứa bé chích mũi ngừa dại để bao che cho kẻ gây rối trong gia đình – các anh đã chứng kiến mấy chuyện đó rồi. Cũng đáng để hỏi han trong mấy bệnh viện lắm – ai đã được chích ngừa dại.

“Tôi mới có thế thôi.” Các cơ đùi của Graham rần rật vì mệt mỏi khi anh ngồi xuống.

“Đáng để hỏi lắm, và chúng ta sẽ hỏi” Springfield nói. “Thế này nhé. Tổ Safe và Loft chịu trách nhiệm khu vực hàng xóm lân cận cùng với Larceny. Điều tra vụ con chó. Các cậu sẽ thấy thông tin cập nhật cùng hình ảnh trong hồ sơ. Tìm ra xem có bất cứ người lạ nào được trông thấy cùng con chó hay không. Đội Vice và Narcotics, kiểm tra đám gay cùng mấy quán bar đồng tính sau khi các cậu xong ca tuần tra ngày. Marcus và Whitman – đến đám tang. Các cậu đã có bà con, bạn bè gì của gia đình đến đó để mắt giùm các cậu chưa? Tốt. Thế còn tay chụp ảnh? Được rồi. Giao cuốn danh sách khách dự cho bên R&I. Họ đã có một cuốn ở Birmingham rồi. Các nhiệm vụ còn lại đều ở trên giấy tờ đấy. Đi thôi.”

“Còn chuyện nữa” Lewis lên tiếng. Mấy anh cảnh sát ngồi phịch lại xuống ghế. “Tôi có nghe các cảnh sát trong sở này đề cập đến kẻ sát nhân là Tiên Răng”. Tôi không quan tâm mấy anh gọi hắn là gì giữa mấy anh với nhau, tôi biết là mấy anh phải gọi hắn bằng cái tên gì đấy.

Nhưng tôi không muốn nghe bất cứ cảnh sát viên nào công khai gọi hắn là Tiên Răng”. Nghe không nghiêm túc gì cả. Mà các anh cũng không được dùng cái tên ấy trong các tài liệu thông tin nội bộ.

“Thế thôi.”

Crawford và Graham theo Springfield vào văn phòng ông ta. Spingfield đưa cho họ cà phê trong khi Crawford kiểm tra qua với tổng đài điện thoại và hí hoáy ghi lại mấy tin nhắn.

“Tôi không có dịp nói chuyện với cậu khi cậu đến đây hôm qua.” Springfield bảo với Graham. “Nơi này cứ bấn loạn cả lên. Là anh Will, phải không nhỉ? Mấy cậu ở đây có cung cấp cho anh mọi thứ anh cần không?”

“Có, mọi người tử tế lắm.”

“Bọn tôi chẳng có quái gì và chúng tôi biết chứ” Springfield nói. “À không, chúng tôi đã dựng được hình ảnh mô tả dáng đi từ các dấu chân trong luống hoa. Hắn đi loanh quanh mấy bụi rậm nên chẳng thể xác định được gì nhiều ngoài cỡ giày có thể thêm chiều cao của hắn. Dấu chân bên trái hơi sâu hơn nên có lẽ hắn đang vác theo gì đấy. Bọn tôi vẽ ra việc để làm ấy mà. Nhưng vài năm trước, chúng tôi quả có bắt được một tên trộm nhờ vào hình ảnh mô tả dáng đi đấy nhé. Ảnh cho thấy có chứng bệnh Parkinson. Bác sĩ Princi đã phát hiện ra. Lần này thì chúng tôi không gặp may.”

“Ông có một đội rất cừ,” Graham bảo.

“Họ cừ thật. Nhưng kiểu vụ như thế này không nằm trong loại công việc thường ngày của chúng tôi, tạ ơn trời đất. Tôi hỏi thẳng nhé, mấy người các anh hợp tác cùng nhau suốt đấy ư – cậu cùng Jack và tiến sĩ Bloom ấy – hay các cậu chỉ nhóm lại với nhau trong những vụ như thế này thôi?”

“Chỉ cho những vụ thế này” Graham đáp.

“Quả là một sự tái hợp. Tay ủy viên bảo rằng anh là người đã tóm Lecter ba năm về trước”

“Tất cả chúng tôi đều tham gia vụ đấy cùng lực lượng cảnh sát bang Maryland,” Graham đáp. “Cảnh sát bang Maryland đã bắt hắn.”

Springfield xỏ lá lắm, chứ chẳng ngu ngốc đâu. Ông có thể nhận ra là Graham không được thoải mái. Ông xoay xoay người trên ghế rồi nhặt vài tờ ghi chép lên.

“Anh có hỏi về con chó. Đây là tờ ghi chép về nó này. Tối qua bác sĩ thú y đã gọi cho anh trai của ông Leeds. Ông ta đang giữ con chó. Ông Leeds cùng cậu con cả đã mang con chó đến vào buổi chiều trước khi họ bị sát hại. Con chó bị một vết thương đâm thủng bụng. Bác sĩ thú y đã mổ cho nó và giờ nó đã ổn. Thoạt đầu ông ấy nghĩ con chó bị bắn, nhưng rồi lại không tìm ra đầu đạn. Bác sĩ nghĩ con chó bị đâm bởi một vật giống như cây chọc đá hay cuốc mai. Chúng tôi đang hỏi qua hàng xóm xem có ai trông thấy bất cứ kẻ nào đã chọc phá con chó hay không, và hôm nay chúng tôi sẽ gọi điện kiểm tra các bác sĩ thú y trong vùng để tìm thêm những vụ hành hạ thú vật.”

“Con chó có mang vòng cổ đề tên gia đình Leeds không?”

“Không.”

“Gia đình Jacobi ở Birmingham có chó không?” Graham hỏi.

“Việc đó thì chắc là giờ ta phải hỏi đã” Springfield đáp. “Chờ chút, để tôi xem nào.” Ông gọi tổng đài nội bộ. “Trung sĩ Flatt là người liên lạc với chúng tôi tại Birmingham – à, Flatt hả. Thế mấy con chó nhà Jacobi thì sao nhỉ? Ừ hử… ừm. Chờ chút nào.” Ông chắn tay ngang ống nghe. “Không có chó. Họ tìm thấy một chiếc hộp nhỏ có phân mèo trong phòng tắm dưới nhà. Hàng xóm đang tìm kiếm con mèo đấy.”

“Ông vui lòng yêu cầu bên Birmingham kiểm tra ngoài sân lẫn phía sau bất cứ dãy nhà phụ nào nhé,” Graham bảo. “Nếu con mèo bị thương, mấy đứa nhỏ có thể đã không tìm ra nó kịp lúc và chắc là đã chôn nó rồi. Ông biết mấy con mèo thế nào mà. Lúc sắp chết chúng đều ẩn mình đi. Còn chó thì lại mò về nhà. Và ông hỏi giùm con mèo có mang vòng cổ không?”

“Bảo họ nếu họ cần đầu dò khí mê tan thì chúng tôi sẽ gửi đến cho” Crawford nói vào. “Đỡ được khối giờ đào đất đấy.”

Springfield chuyển lại lời yêu cầu. Điện thoại lại réo lên ngay khi ông bỏ máy. Cuộc gọi dành cho Jack Crawford. Là Jimmy Price từ Nhà Tang lễ Lombard. Crawford bấm nhận cuộc gọi từ một điện thoại khác.

“Này Jack, tôi có được một phần vân tay có thể là ngón cái và một chút dấu lòng bàn tay”.

“Jimmy, anh là ánh sáng của đời tôi.”

“Tôi biết chứ. Phần vân tay là mẫu vân dạng vòm cung nhú đỉnh, nhưng lại bị nhòe. Tôi sẽ phải xem có thể làm được gì với cái này khi tôi quay về. Vân tay được lấy từ mắt trái của đứa nhỏ lớn tuổi nhất. Trước đây tôi chưa từng làm chuyện này. Lẽ ra sẽ chẳng nhìn thấy đâu, nhưng dấu vân này nổi bật lên trên nhãn cầu tụ máu đen do vết thương súng bắn.”

“Anh có thể dựng được nhân dạng từ nó không?”

“Hú họa lắm Jack ạ. Nếu hắn ta nằm trong danh sách dấu vân đơn thì có lẽ được, nhưng đấy giống như chơi trò xổ số thôi, anh biết mà. Dấu lòng bàn tay được lấy từ móng chân cái bên trái của bà Leeds. Cái này chỉ có ích để làm so sánh thôi. Chúng ta may mắn lắm nếu lấy được sáu điểm so sánh từ dấu này. Tay trợ lý SAC (đặc vụ toàn quyền) đã làm chứng, cả ông Lombard nữa. Ông ta là công chứng viên. Tôi đã có được những bức ảnh in situ (ảnh in tại hiện trường) Như vậy được chưa?”

“Thế còn về việc loại trừ dấu tay của nhân viên nhà tang lễ sao?”

“Tôi đã cho lăn vân tay của ông Lombard cùng tất cả đám Hoan Hỉ Hội của ông ta, lấy dấu tay toàn bộ từ ngón đến lòng bàn tay dù họ có nói là họ đã chạm vào bà Leeds hay không. Lúc này họ đang vừa chà rửa tay vừa càu nhàu kia kìa. Để tôi về nhà đi Jack. Tôi muốn xử lý mấy cái này trong căn phòng tối của tôi. Ai biết trong nước ở đây có gì chứ – rùa bể chăng – ai biết được?”

“Tôi có thể bay đến Washington trong vòng một giờ rồi fax cho anh mấy dấu vân tay khoảng đầu giờ chiều.”

Crawford suy nghĩ một chặp. “Okay, Jimmy, nhưng mà nhanh lên đấy. Gửi cho Sở Cảnh sát Atlanta và Birmingham cùng văn phòng Cục luôn thể.”

“Có ngay. Nào, có chuyện khác chúng ta cần phải làm rõ về phía anh đây.”

Crawford đảo tròn mắt lên trần nhà chán nản. “Lại càm ràm về công tác phí đây chứ gì?”

“Phải”.

“Riêng ngày hôm nay thì, ông bạn Jimmy của tôi ạ, nhiều bao nhiêu cũng xứng với ông hết.”

Graham nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ khi Crawford thuật lại cho mọi người nghe về những dấu vân tay.

“Trời đất ấn tượng quá” Springfield chỉ có thể thốt lên thế.

Gương mặt Graham trống rỗng; kín bưng như nét mặt kẻ bị tù chung thân, Springfield thầm nghĩ.

Ông ta dõi theo mãi đến khi Graham ra khỏi cửa.

Khi Crawford và Graham rời khỏi văn phòng của Springfield, buổi họp báo của Ủy ban An toàn Công cộng đang diễn ra trong tiền sảnh.

Những phóng viên báo giấy lao đi gọi điện thoại. Phóng viên truyền hình thì đang “chèn cảnh xa”, một mình đứng trước camera đặt câu hỏi hay ho nhất mà họ đã nghe được trong buổi họp báo rồi giương micro vào không khí chờ lời đáp chút nữa sẽ được nói vào từ phần phim quay tay ủy viên.

Crawford và Graham vừa dợm bước xuống bậc cấp phía trước thì một người đàn ông nhỏ thó phóng ngay đến phía trước họ, quay ngoắt lại bấm một pô ảnh. Bản mặt gã thò ra sau camera.

“Will Graham!” gã reo lên. “Nhớ tôi không – Freddy Lounds đây? Tôi đăng tin về vụ Lecter cho tờ Tattler ấy. Tôi đã viết sách luôn.”

“Tôi nhớ” Graham đáp. Anh cùng Crawford tiếp tục bước xuống mấy bậc cấp, Lounds đi tránh sang một bên phía trước họ.

“Họ gọi anh vào cuộc khi nào vậy Will? Anh đã tìm được gì rồi?”

“Tôi sẽ không nói với anh đâu, Lounds.”

“Tên này đem so với Lecter thì như thế nào? Hắn có làm…”

“Lounds.” Giọng Graham vang lớn làm Crawford nhanh như cắt phải chen vào phía trước anh. “Này Lounds, anh toàn viết thứ rác rưởi láo toét, còn tờ National Tattler là tờ chùi đít. Tránh xa khỏi tôi.”

Crawford tóm chặt tay Graham. “Biến đi, Lounds. Đi đi. Will, ta đi dùng điểm tâm nào. Thôi nào, Will.” Họ quành qua góc đường, rảo bước vội vã.

“Tôi xin lỗi, Jack ạ. Không thể chịu được thằng mất dạy ấy. Khi tôi nằm viện, hắn lẻn vào và…”

“Tôi biết chuyện này”, Crawford bảo. “Tôi đã đẩy hắn ra ngoài, cũng đáng lắm.” Crawford nhớ đến bức ảnh trên tờ National Tattler khi vụ Lecter sắp kết thúc. Lounds đã lẻn vào phòng bệnh trong khi Graham đang ngủ. Gã đã lật giở chân để chụp tấm ảnh phần đại tràng nhân tạo tạm thời của Graham. Tờ báo đã cho đăng bức ảnh được chỉnh sửa lại với một ô vuông đen che đi hạ bộ của Graham. Nhan đề bức ảnh là “Tay Cớm Ruột Rồ”.

Quán ăn sáng choang sạch sẽ. Hai tay Graham run run và anh làm sánh cà phê ra đĩa lót.

Anh nhận ra thuốc lá Crawford hút làm cặp đôi ngồi ô kế bên khó chịu. Cặp đôi lặng im dùng bữa, lòng oán hận treo trong làn khói thuốc.

Hai người phụ nữ, có vẻ như mẹ và con gái, đang gây nhau bên bàn cạnh cửa ra vào. Họ nói thấp giọng, về giận dữ méo mó trên mặt.

Graham có thể cảm nhận được cơn giận của họ trên cả mặt, cả cổ ông.

Crawford đang kêu ca về việc sáng hôm sau phải đi làm chứng trong phiên tòa ở Washington. Ông đang lo có thể bị phiên tòa ấy trói chân đến mấy ngày. Vừa châm thêm điếu thuốc, ông vừa chõ mắt nhìn qua ngọn lửa vào hai tay cùng sắc mặt của Graham.

“Atlanta và Birmingham có thể chạy đối chiếu dấu ngón tay cái ấy với những tội phạm tình dục mà họ đã biết” Crawford nói. “chúng ta cũng thế. Và trước đây Price đã từng moi ra một dấu tay duy nhất từ đống hồ sơ. Ông ta sẽ cho dấu tay ấy vào FINDER để lập trình tìm kiếm – chúng ta đã phát triển rất xa trong trò này kể từ khi cậu rời ngành. FINDER, chương trình đọc và xử lý vân tay tự động của FBI, có thể nhận ra được dấu ngón cái trên thẻ vân tay từ một vụ án nào đó hoàn toàn không liên quan.

“Khi chúng ta tóm được hắn, dấu tay ấy cùng răng của hắn sẽ khiến hắn đi tong,” Crawford bảo. “Việc chúng ta cần làm là phải hình dung ra hắn có thể là thứ gì. Chúng ta phải giăng lưới thật rộng. Nào, giải trí cho tôi tí nào. Giả dụ như chúng ta đã bắt được một nghi phạm với khả năng có tội lớn. Cậu bước vào trông thấy hắn. Điều gì ở hắn sẽ không làm cậu ngạc nhiên vậy?”

“Tôi chả biết, Jack ạ. Chết tiệt, với tôi hắn vẫn vô diện. Chúng ta có thể mất cả đống thời gian đi tìm những kẻ do chúng ta dựng ra. Ông đã trao đổi với Bloom chưa?”

“Nói điện thoại tối qua. Bloom không nghĩ tên này muốn tự sát, Heimlich cũng nghĩ vậy. Bloom chỉ ở đây có mấy tiếng đồng hồ vào ngày đầu tiên, nhưng ông ấy cùng Heimlich có toàn bộ hồ sơ vụ án. Tuần này Bloom đang kiểm tra những ứng viên tiến sĩ. Ông ấy gửi lời hỏi thăm anh. Anh có số điện thoại ông ấy ở Chicago chứ?”

Graham thích tiến sĩ Alan Bloom, một người đàn ông tròn trịa nhỏ nhắn có đôi mắt buồn, một chuyên gia giám định tâm thần tài giỏi – có lẽ là giỏi nhất. Graham lấy làm cảm kích khi tiến sĩ Bloom chưa khi nào bày tỏ hứng thú chuyên môn với anh cả. Đối với mấy tay bác sĩ tâm thần thì không phải khi nào cũng thế.

“Bloom bảo ông ấy sẽ chẳng bất ngờ đâu nếu chúng ta được Tiên Răng liên lạc. Có thể hắn sẽ viết lời nhắn cho chúng ta,” Crawford nói.

“Trên tường phòng ngủ.”

“Bloom nghĩ hắn có thể dị dạng hoặc có thể hắn tin rằng mình dị dạng. Ông ấy bảo tôi đừng chú trọng quá đến điều này. Ông bảo tôi rằng “tôi sẽ không dựng lên ảnh ảo để đuổi theo làm gì. Làm thế sẽ gây ra sao nhãng và sẽ phân tán nỗ lực. Còn bảo thời đại học người ta dạy ông ấy nói năng như thế.”

“Ông ấy nói phải đấy” Graham bảo.

“Hẳn cậu đã biết được chút đỉnh gì về hắn, không thì cậu tìm ra cái vân tay ấy sao được,” Crawford nói.

“Đấy là nhờ bằng chứng trên bức tường chết tiệt ấy thôi, Jack. Đừng có quy kết cho tôi chứ. Nghe này, đừng trông đợi ở tôi quá nhiều, nhé?”

“Ồ, chúng ta sẽ tóm được hắn thôi. Cậu biết là chúng ta sẽ làm được mà, đúng không?”

“Tôi biết. Bằng cách này hay cách khác thôi.”

“Cách này là gì?”

“Chúng ta sẽ tìm ra bằng chứng mà ta đã bỏ sót.”

“Thế còn cách khác?”

“Hắn sẽ ra tay liên tục cho đến một đêm nọ hắn gây ra quá nhiều tiếng động lúc đột nhập nên người chồng kịp thời vớ được súng”

“Không còn khả năng nào khác à?”

” Anh nghĩ tôi sẽ nhận ra hắn ở ngay phía bên kia một căn phòng đầy người sao? Không đâu, người làm được như anh nghĩ chỉ có Enzio Pinza thôi (ca sĩ người Ý- ca khúc Some Enchanted Everning). Còn tên Tiên Răng này sẽ ra tay mãi cho đến khi chúng ta khôn ra hoặc gặp may thôi. Hắn sẽ không dừng lại.”

“Tại sao?”

“Vì hắn thành tâm yêu thích việc ấy.”

“Đấy thấy chưa, cậu quả có biết chút đỉnh về hắn mà,” Crawford nói.

Graham chẳng nói chằng rằng gì nữa cho đến khi hai người họ ra ngoài lề đường. “Chờ đến ngày rằm tới đi,” anh bảo Crawford. “Rồi hẵng nói cho tôi biết tôi hiểu được hắn mấy phần.”

Graham quay trở về khách sạn ngủ được hai tiếng rưỡi. Anh thức dậy lúc buổi trưa, tắm táp, rồi kêu lên phòng một bình cà phê cùng suất sandwich. Đến lúc phải nghiên cứu cặn kẽ hồ sơ vụ Jacobi ở Birmingham. Anh dùng xà phòng của khách sạn để cọ kính đọc sách của mình rồi đặt nó cạnh cửa sổ bên tập hồ sơ. Trong vài phút đầu anh ngẩng đầu lên mỗi một lần nghe thấy bất cứ tiếng động nào, tiếng bước chân trong hành lang, tiếng cửa thang máy sập lại văng vẳng. Rồi sau đấy anh chẳng biết gì ngoài tập hồ sơ.

Nhân viên phục vụ mang khay đến gõ cửa rồi chờ, gõ rồi chờ. Cuối cùng anh ta phải để phần ăn trưa lại trên sàn bên ngoài cửa rồi tự mình ký nhận hóa đơn.

Trước
image
Chương 4
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!