Rồng Đỏ

Chương 54
Trước
image
Chương 55
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

Trên tường phía cuối chân giường là chiếc đồng hồ treo tường có chữ số to đến mức có thể đọc thấy xuyên qua cả thuốc men lẫn cơn đau.

Khi Will Graham mở mắt ra được, anh nhìn thấy đồng hồ và biết ngay mình đang ở đâu – khoa chăm sóc đặc biệt. Anh biết là phải nhìn đồng hồ. Chuyển động của nó an ủi anh rằng chuyện này đang trôi qua, sẽ trôi qua.

Đấy là lý do đồng hồ có ở đấy.

Đồng hồ chỉ bốn giờ. Anh chẳng biết bốn giờ sáng hay chiều và anh cũng chẳng quan tâm, miễn là kim đồng hồ vẫn đang chạy. Anh mê đi.

Đồng hồ chỉ tám giờ khi anh lại mở mắt ra.

Ai đó đang đứng bên cạnh anh. Thật thận trọng anh liếc mắt sang. Là Molly, đang nhìn ra ngoài cửa sổ. Cô ốm quá. Anh cố nói, nhưng một cơn đau kinh khủng tràn lên khắp phần đầu bên trái của anh khi anh cử động hàm. Đầu và ngực anh không nhức lên cùng lúc. Mà giống lệch pha hơn. Anh phát ra một tiếng khi cô rời khỏi phòng.

Cửa sổ sáng choang khi người ta co kéo anh rồi làm những việc khiến gân cổ anh nổi hết cả lên.

Ánh đèn vàng khi anh nhìn thấy gương mặt của Crawford bên trên mình.

Graham cố sức cũng nháy được mắt. Khi Crawford cười toe, Graham có thể thấy một mảnh rau chân vịt giữa răng ông ta.

Kỳ lạ. Crawford kiêng hầu hết các loại rau mà.

Graham làm cử động như đang viết lên tấm khăn trải giường bên dưới tay mình.

Crawford chuồi sổ ghi chép của mình xuống dưới tay Graham rồi đặt một cây bút giữa các ngón tay.

“Willy OK,” anh viết.

“Ừ, thằng bé ổn,” Crawford đáp. “Molly cũng thế. Cô ấy đã ở trong này khi cậu ngủ. Dolarhyde chết rồi, Will à. Tôi hứa với cậu, hắn chết rồi. Tôi đích thân lấy vân tay và cho Price so sánh. Không nghi ngờ gì cả. Hắn chết rồi.”

Graham vẽ một dấu chấm hỏi lên tập giấy.

“Chúng ta sẽ nói đến chuyện đấy. Tôi sẽ ở trong này, tôi có thể kể cho cậu nghe toàn bộ câu chuyện khi cậu khỏe. Người ta cho tôi có năm phút thôi.”

“Ngay,” Graham viết.

“Bác sĩ đã nói chuyện với cậu chưa? Chưa à? Về cậu trước đã – cậu sẽ không sao hết. Mắt cậu chỉ là sưng húp lên tít lại vì vết đâm sâu trong mặt. Người ta đã chữa lại rồi, nhưng phải mất thời gian. Họ cắt đi lá lách của cậu. Nhưng ai cần lá lách chứ? Price bỏ lại lá lách của anh ta ở Miến Điện từ năm 1941.”

Y tá gõ gõ vào cửa kính.

“Tôi phải ra thôi. Ở trong này họ chẳng tôn trọng thẻ ngành, chẳng gì cả. Cứ hết giờ là họ quẳng cậu ra ngoài thôi. Gặp lại sau nhé.”

Molly đang ở trong phòng chờ của khoa chăm sóc đặc biệt. Rất nhiều người mệt mỏi đang ở trong đấy.

Crawford đi đến chỗ cô. “Molly…”

“Chào Jack,” cô nói. “Ông trông khỏe quá nhỉ. Muốn cho anh ấy phẫu thuật đổi mặt quá.”

“Đừng thế Molly.”

“Ông đã nhìn anh ấy chưa?”

“Rồi!”.

“Tôi không nghĩ mình có thể nhìn vào anh ấy đâu, nhưng tôi đã nhìn”

“Người ta sẽ chữa cho cậu ta thôi. Bác sĩ bảo tôi thế. Họ có thể làm được. Cô có muốn ai đó ở cùng cô không Molly? Tôi có mang theo Phyllis, cô ấy…”

“Không. Đừng làm bất cứ chuyện gì nữa cho tôi”

Cô quay ngoắt đi, lục lọi tìm khăn giấy. Ông trông thấy lá thư cô đã mở ở trong ví: loại giấy màu hoa cà đắt tiền mà trước đây Crawford đã nhìn thấy.

Crawford ghét chuyện này. Phải làm thôi.

“Molly”.

“Gì đây?”

“Will có thư à?”

“Phải.”

“Y tá đưa cho cô phải không?”

“Vâng cô ấy đưa cho tôi. Họ cũng đang giữ mớ hoa lá từ tất cả bạn của anh ấy ở Washington nữa đấy.”

“Cho tôi xem lá thư nhé?”

“Tôi sẽ đưa cho anh ấy khi anh ấy muốn”

“Làm ơn cho tôi xem lá thư.”

“Tại sao chứ?”

“Bởi vì cậu ấy không cần phải nghe tin từ… từ chính con người đó.”

Có gì đấy không ổn trong vẻ mặt Crawford khiến Moly nhìn xuống lá thư rồi đánh rơi hết, cả ví, cả mọi thứ. Một thỏi son lăn lông lốc trên sàn nhà.

Cúi người xuống nhặt đồ của Molly lên, Crawford nghe thấy tiếng gót giày lóc cóc đi thật nhanh khi cô rời khỏi ông, bỏ lại cả ví.

Ông đưa ví cho y tá đang trực.

Crawford biết rằng gần như không thể nào có chuyện Lecter lấy được thứ hắn cần, nhưng ai chứ Lecter thì ông không muốn nói chắc gì hết.

Ông nhờ một bác sĩ thực tập xét nghiệm huỳnh quang lá thư trong phòng X-quang.

Crawford dùng dao rọc giấy rọc hết bốn phía phong bì rồi kiểm tra mặt bên trong phong bì cùng lá thư để tìm bất cứ vết bẩn hay bụi nào – người ta hẳn có thể có dung dịch kiềm để giặt rửa tại bệnh viện Chesapeake với lại còn có hiệu thuốc ở đấy nữa.

Cuối cùng khi đã hài lòng, ông đọc thư.

Will thân mến,

Thế là chúng ta lại ở đây, tôi và cậu, tàn tạ héo hon trong bệnh viện của chúng ta. Cậu thì có cơn đau của cậu còn tôi thì không có sách của tôi – tên tiến sĩ Chilton uyên bác đã đảm bảo việc này.

Chúng ta đang sống trong kỳ nguyên thủy – đúng không Will? – không man rợ nhưng cũng chẳng khôn ngoan. Những phương thức lưng chừng chính là thủ phạm. Bất cứ xã hội có lý trí nào thì sẽ hoặc là giết chết tôi hoặc trả sách lại cho tôi.

Tôi chúc cậu chóng hồi phục và hy vọng cậu sẽ không xấu xí cho lắm.

Tôi rất thường nghĩ đến cậu.

Hannibal Lecter

Bác sĩ thực tập nhìn đồng hồ đeo tay. “Ông có cần tôi nữa không?”

“Không,” Crawford đáp. “Chỗ thiêu xác ở đâu vậy?”

Bốn tiếng sau khi Crawford quay lại nhân đợt vào thăm bệnh tiếp theo, Molly không có trong phòng đợi và cô cùng không ở trong khoa chăm sóc đặc biệt.

Graham đang thức. Anh lập tức vẽ một dấu hỏi trên tập giấy. Dưới đấy anh viết “D. chết thế nào?”

Crawford kể cho anh nghe. Graham nằm im phăng phắc cả một phút. Đoạn anh viết “Đã bỏ trốn thế nào?”

“Okay,” Crawford nói. “St. Louis. Hẳn Dolarhyde đã trên đường đi tìm Reba McClane. Hắn đi đến phòng thí nghiệm khi chúng ta đang ở đấy thế là hắn thấy chúng ta. Dấu vân tay của hắn ở trên một cửa sổ phòng sưởi đang để mở – mãi đến hôm qua chuyện này mới được báo cáo đến”

Graham vỗ vỗ vào tập giấy. “Xác?”

“Chúng tôi nghĩ đấy là một gã tên Amold Lang – anh ta đang mất tích. Xe của anh ta được tìm thấy tại Memphis. Đã được chùi sạch. Người ta sẽ đuổi tôi ra trong một phút nữa, nên để tôi kể cho cậu nghe theo trình tự.

“Dolarhyde biết chúng ta ở đấy. Hắn trốn khỏi chúng ta tại công ty rồi lái xe đến trạm xăng Servco Supreme tại đại lộ Lindbergh và quốc lộ 270. Amold Lang làm việc tại đấy.

“Reba McClane bảo Dolarhyde từng sừng sộ với một gã phục vụ tại trạm xăng vào ngày thứ Bảy tuần trước nữa. Bọn tôi nghĩ đấy là Lang.

“Hắn giết Lang rồi đem xác về nhà. Rồi hắn đến nhà Reba McClane. Cô ta đang ôm ấp gì đấy với Ralph Mandy ngoài cửa. Hắn bắn Mandy rồi lôi xác vào bờ rào.”

Y tá đi vào.

“Vì Chúa, đây là chuyện công việc của cảnh sát cơ mà,” Crawford nói. Ông nói thật nhanh khi cô y tá kéo tay áo khoác dẫn ông ra cửa. “Hắn đánh thuốc mê Reba McClane rồi mang về nhà hắn. Xác người ở đấy,” Crawford từ ngoài hành lang nói với vào.

Graham phải chờ đến bốn tiếng mới biết được phần còn lại của câu chuyện.

“Hắn nói này nói nọ với cô ấy, cậu biết mà, tôi có nên giết cô hay không đây,” Crawford nói khi vừa bước qua cửa.

“Cậu biết cái trò nhàm về chìa khóa đeo trên cổ hắn rồi – là để bảo đảm cô ấy tìm thấy cái xác. Để rồi cô ta có thể nói cho chúng ta rằng cô ta chắc chắn đã sờ thấy cái xác. Được rồi, thêm trò nói một đằng làm một nẻo, Tôi không thể nhìn thấy cô chết cháy, hắn nói rồi bắn vỡ sọ Lang bằng khẩu magnum 12.

“Lang thích hợp vô cùng. Ít ra anh ta cũng chẳng có cái răng nào. Có lẽ Dolarhyde biết khung hàm răng trên rất bền trong lửa – ai mà biết được hắn biết gì chứ? Vậy đấy, Lang chẳng còn khung hàm răng trên nào sau khi Dolarhyde xong việc với anh ta. Hắn bắn tung đầu Lang khỏi xác rồi hẳn là hắn xô ngã ghế hay gì đấy để tạo tiếng thịch, đeo chìa khóa vào quanh cổ Lang.

“Giờ thì đến Reba lồm cồm bò quanh tìm chìa khóa. Dolarhyde đứng trong góc phòng quan sát. Hai tai cô ấy đang ong ong vì tiếng súng. Cô ấy không thể nghe ra những tiếng động nhỏ của hắn được”.

“Hắn châm lửa, nhưng chưa đưa xăng vào. Hắn có xăng trong phòng. Cô ta ra khỏỉ nhà an toàn. Nếu Reba mà hoảng loạn quá mức, đâm đầu vào tường hay gì đó, hay chết dí một chỗ, tôi đoán hắn sẽ táng xỉu cô ấy rồi kéo ra ngoài. Cô ta chắc chắn sẽ không biết được mình đã thoát ra như thế nào đâu.

Nhưng cô ấy phải ra được khỏi nhà hòng khiến cho kế hoạch có tác dụng. Ôi quỷ tha ma bắt, cô y tá kia lại đến rồi.”

Graham viết thật nhanh. “Xe thì sao?”

“Cậu phải thán phục chuyện này thôi,” Crawford nói. “Hắn biết mình phải để lại xe thùng ở nhà. Hắn không thể lái hai xe ra ngoài trong khi hắn lại cần xe để đào tẩu.

“Đây hắn làm thế này này: hắn bắt Lang móc xe tải kéo hàng của trạm vào xe hắn. Hắn giết Lang, đóng cửa trạm xăng rồi kéo xe hắn về nhà mình. Đoạn hắn bỏ xe tải kéo hàng ngoài đường đất phía sau nơi mấy cánh đồng sau nhà, quay trở lại xe thùng của mình rồi đi bắt Reba. Khi cô ấy đã ra khỏi nhà an toàn rồi, hắn lôi đống thuốc nổ ra, chế xăng quanh đám cháy rồi chuồn ra theo ngả hậu. Hắn lái xe tải kéo hàng trở lại trạm xăng, bỏ lại đấy rồi lấy xe riêng của Lang. Không chút sơ hở.

“Việc này làm tôi điên cả đầu cho đến khi bọn tôi nghĩ ra. Tôi nghĩ đúng là như vậy thôi vì hắn có để lại vài dấu vân tay trên thanh càng xe tải kéo hàng.

“Có lẽ chúng ta đã gặp hắn trên đường khi chúng ta chạy lên chỗ nhà hắn – vâng thưa cô, tôi đi đây. Vâng thưa cô.”

Graham muốn hỏi một câu nhưng muộn mất rồi.

Molly đến thăm trong lần thăm kéo dài năm phút tiếp theo.

Graham viết “Anh yêu em” trên tập giấy của Crawford.

Cô gật đầu rồi nắm lấy tay anh.

Một phút sau anh lại viết.

“Willy okay?”

Cô gật.

“Ở đây?”

Cô ngước nhìn lên anh từ tập giấy hơi quá nhanh. Cô chụm môi tạo hình nụ hôn rồi chỉ tay về phía y tá đang đi vào.

Anh kéo ngón tay cô.

“Ở đâu?” Anh nằn nì, gạch chân đến hai lần.

“Oregon,” cô đáp.

Crawford vào lần cuối.

Graham đã viết sẵn trên giấy. “Răng?”

“Của bà hắn” Crawford đáp. “Bộ răng chúng ta tìm thấy trong nhà là răng của bà hắn. Sở Cảnh sát St. Louis tìm được tay Ned Vogt nào đấy – mẹ của Dolarhyde là mẹ kế của Vogt. Vogt từng thấy bà Dolarhyde khi anh ta còn nhỏ và anh ta không bao giờ quên được hàm răng.

“Đấy là chuyện tôi định nói lúc gọi cho cậu lúc cậu chạm trán với Dolarhyde đấy. Lúc ấy viện Smithsonian mới gọi cho tôi. Họ cuối cùng cũng lấy được hàm răng từ chính quyền bang Missouri, chỉ để giám định cho vừa ý thôi. Họ để ý thấy phần trên được làm từ cao su lưu hóa thay vì nhựa acrylic như ngày nay người ta sử dụng. Ba mươi lăm năm nay chẳng ai sản xuất hàm răng giả từ cao su lưu hóa nữa cả.

“Dolarhyde có một bộ răng mới bằng acrylic như thế nhưng được làm cho vừa miệng hắn. Răng mới ở trong xác hắn. Viện Smithsonian xem xét vài tính chất trên đấy – họ bảo là những đường rãnh và nếp gấp mặt nướu. Hàng Trung Quốc. Bộ hàm cũ là của Thụy Sĩ.

“Hắn còn có một chìa khóa trong mình nữa, cho một tủ cất đồ ở Miami. Một cuốn sách thật to trong ấy. Giống kiểu như nhật ký ấy – kinh khủng khiếp. Tôi sẽ giữ nó cho đến khi nào cậu muốn xem qua.

“Thôi này, tay cự phách, tôi phải quay về Washington. Cuối tuần tôi sẽ quay lại đây, nếu có thể. Cậu sẽ ổn chứ?”

Graham vẽ một dấu hỏi, nhưng rồi bôi xóa đi mà viết “được”.

Y tá vào sau khi Crawford ra về. Cô tiêm chút Demerol vào ống truyền của anh rồi đồng hồ nhòe nhoẹt đi. Anh không thể nhìn theo nổi kim dài.

Anh thắc mắc liệu Demerol có tác dụng với cảm giác của người ta không. Anh có thể giữ chân được Molly một lúc nhờ bản mặt của mình. Ít ra là cho đến khi người ta chữa chạy xong. Đấy quả là một chiêu rẻ tiền. Giữ chân cô để làm gì mới được? Anh đang mê dần đi và anh hy vọng mình sẽ không mơ.

Anh đúng là trôi dạt mê muội giữa ký ức và mơ, nhưng cũng không đến nỗi nào. Anh không mơ thấy Molly bỏ đi, cũng không mơ thấy Dolarhyde. Mà là một ký ức-giấc mơ dài về Shiloh, bị gián đoạn do đèn chiếu sáng vào mặt anh cùng tiếng khò khè rin rít của vòng đo huyết áp… (Shiloh: chiến trường nơi diễn ra trận Shiloh tại Tây Nam bang Tennessee, một trận đánh ác liệt trong cuộc Nội chiến Mỹ. Nhiều người cho rằng nơi đây bị quỷ ám do có quá nhiều người đã chết tại đây).

Đấy là mùa xuân, không lâu sau khi anh bắn hạ Garrett Jacob Hobbs, khi Graham ghé thăm Shiloh.

Vào một ngày tháng Tư dìu dịu anh thả bước băng qua đường nhựa đi đến Hồ Đẫm Máu. Cỏ non, vẫn còn xanh mơn, mọc thoải xuống sườn đồi đến tận hồ nước. Mặt nước trong vắt đã dâng ngang mép cỏ và cỏ nhìn thấy rõ dưới nước, vẫn mọc xuống, xuống sâu nữa như thể cỏ phủ hết cả đáy hồ.

Graham biết chuyện gì đã xảy ra nơi đấy vào tháng Tư năm 1862.

Anh ngồi xuống cỏ, cảm nhận lớp đất ẩm qua lần vải quần.

Một chiếc xe khách du lịch chạy ngang qua và sau khi nó đi khỏi, Graham nhìn thấy một chuyển động phía sau xe đấy ở trên đường. Chiếc xe đã cán gãy sống lưng một con rắn bắt gà. Nó quằn quại trườn qua chính nó thành hình số 8 ngay giữa mặt đường nhựa, khi thì phô ra phần lưng đen, khi thì phần bụng trắng ởn.

Sự hiện diện diệu vợi của Shiloh trùm lên anh lạnh lẽo, mặc cho anh đang vã mồ hôi dưới ánh mặt trời mùa xuân nhè nhẹ.

Graham đứng dậy khỏi bãi cỏ, phía sau quần âm ẩm. Anh hơi lâng lâng.

Con rắn cuộn vòng mình lại. Anh đứng bên trên, nhặt nó lên từ phần đuôi khô rốc láng mướt, rồi bằng một cử động uyển chuyển anh quật vụt nó như sợi roi.

Não con rắn bắn vèo xuống hồ. Một con cá tráp trồi lên đớp lấy.

Anh từng nghĩ Shiloh là nơi bị quỷ ám, vẻ đẹp của nó mang đầy sát khí như những lá cờ.

Giờ đây, đang trôi dạt giữa ký ức và giấc ngủ nhờ thuốc giảm đau, anh thấy Shiloh không mang đầy sát khí; nó chỉ bàng quan không thiên vị. Shiloh xinh đẹp có thể chứng kiến mọi thứ. Vẻ đẹp không dung thứ được của nó đơn giản chỉ tô đậm thêm sự bàng quan của thiên nhiên mà thôi, Cỗ máy Xanh ấy. Sự yêu kiều của Shiloh cười nhạo vào nghịch cảnh của chúng ta.

Anh tỉnh lại quan sát chiếc đồng hồ không trí não, nhưng bản thân anh không thể thôi không suy nghĩ được.

Trong Cỗ máy Xanh ấy không có lòng tốt; chúng ta tạo ra lòng tốt, chế tác ra nó trong những phần đã phát triển vượt quá bộ não loài bò sát cơ bản của chúng ta.

Chẳng có sự sát nhân. Chúng ta tạo ra sự sát nhân, và nó chỉ có nghĩa lý với chúng ta mà thôi.

Graham biết quá rõ rằng mình chứa đựng mọi yếu tố để tạo ra sự sát nhân; và có lẽ là cả lòng tốt nữa.

Nhưng anh lại hiểu sự sát nhân một cách thấu đáo đến khó chịu.

Anh băn khoăn rằng phải chăng, trong thân xác vĩ đại của nhân loại, trong bộ óc của những con người đã tạo ra nền văn minh, những thôi thúc tàn ác mà ta kiềm chế trong bản thân cùng nhận thức bản năng đen tối về những thôi thúc ấy vẫn hoạt động như một thứ vi rút được làm yếu đi mà cơ thể trang bị vào để tập kháng lại.

Anh thắc mắc rằng phải chăng những thôi thúc kinh khủng cổ xưa đó là thứ vi rút tạo ra vắc xin.

Phải, anh đã sai về Shiloh. Shiloh không bị quỷ ám – mà là con người kia.

Shiloh đâu buồn quan tâm.

Trước
image
Chương 55
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!