Rồng Đỏ

Chương 6
Trước
image
Chương 7
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

Những tờ ghi chú mỏng tang ghi lại mọi cuộc gọi liên quan đến vụ gia đình Leeds được sắp trên bàn của Springfield Bảy giờ sáng thứ Ba khi Springfield vào đến văn phòng, tổng cộng có 63 tờ ghi chú. Tờ nằm trên cùng được đánh dấu đỏ quan trọng.

Lời nhắn để lại rằng cảnh sát ở Birmingham đã tìm thấy một con mèo được chôn trong hộp đựng giày phía sau ga ra nhà Jacobi. Con mèo ôm một cành hoa giữa hai chân và được gói trong chiếc khăn lau chén. Tên con mèo được viết trên nắp hộp bằng nét chữ trẻ con. Nó không đeo lồng cổ. Một sọi dây buộc gút lỏng lẻo cột nắp hộp lại.

Chuyên viên pháp y của Sở Cảnh sát Birmingham bảo rằng con mèo bị bóp cổ chết. Người này đã cạo sạch lông con mèo nhưng không tìm thấy vết thương đâm xuyên nào.

Springfield gõ gõ gọng kính vào răng.

Cảnh sát đã tìm thấy nền đất mềm nên đã dùng xẻng đào lên. Chẳng cần dùng đến cái máy dò khí mê tan chết tiệt nào cả. Tuy nhiên, Graham đã nói đúng.

Springfield liếm ngón tay cái rồi bắt đầu lật qua chồng những tờ ghi chú mỏng tang. Chủ yếu là báo cáo về mấy chiếc xe có vẻ tình nghi trong vùng lân cận cả tuần qua, những mô tả mơ hồ chỉ kể ra được loại xe hay màu sơn. Bốn kẻ gọi điện nặc danh đã nói với cư dân vùng Atlanta rằng: “Tao sẽ xử gia đình mày như đã làm với nhà Leeds.”

Báo cáo của Hoyt Lewis nằm giữa chồng giấy.

Springfield gọi cho viên chỉ huy đội trực đêm. “Thế còn báo cáo của tay đọc công tơ điện về tay Parsons kia thì sao? số 48 ấy.”

“Tối qua chúng tôi đã kiểm tra với mấy công ty cung cấp điện nước rồi sếp à, xem thử họ có cử người nào đến con hẻm đó không,” chỉ huy đội trực đêm nói. “Sáng nay họ mới trả lời được cho chúng ta.”

“Anh cho người gọi lại họ ngay” Springfield ra lệnh. “Kiểm tra cả với bên quét dọn, công chính, rà soát giấy phép xây dựng dọc con hẻm đấy rồi ra xe gặp tôi.”

Ông quay số của Will Graham. “Will hả? Mười phút nữa ra gặp tôi trước khách sạn của cậu rồi chúng ta lái xe đi vòng vòng chút nhé.”

7 giờ 45 sáng, Springfield đậu xe lại gần cuối con hẻm. Ông cùng Graham sánh vai bước lần theo dấu bánh xe in trên nền sỏi lát đường. Thậm chí sáng sớm thế này mặt trời đã rất nóng.

“Cậu cần đội mũ,” Springfield bảo. Chiếc nón vành rơm của ông ta được kéo xéo xuống che ngang mắt.

Dãy hàng rào mắt cáo phía sau nhà gia đình Leeds phủ đầy dây leo. Đám dây leo mọc đến công tơ điện trên cột thì ngừng lại.

“Nếu hắn trèo xuống bằng đường này, hắn có thể trông thấy toàn bộ phần sau của ngôi nhà” Springfield nói.

Mới chỉ có năm ngày mà nhà cửa gia đình Leeds đã bắt đầu trông như bị bỏ hoang, cỏ mọc chỗ cao chỗ thấp, mầm hành dại nhú lên qua đám cỏ. Những nhành cây be bé đã rơi rụng xuống sân. Graham những muốn nhặt chúng lên. Căn nhà trông như đang say ngủ, hàng hiên rào song gỗ vằn vện bóng cây đổ dài trong buổi sáng. Đứng cùng Springfield trong con hẻm, Graham có thể mường tượng mình đang nhìn vào cửa sổ sau nhà, mở cửa hàng hiên ra. Lạ lùng thay, dưới ánh mặt trời, khả năng tái tạo lại lối tên sát nhân đi vào của anh dường như tránh né đi đâu mất. Anh dõi theo chiếc xích đu khẽ đưa trong cơn gió nhẹ.

“Kia trông như là Parsons rồi” Springfield lên tiếng.

H.G. Parsons dậy ra ngoài sớm, đang xới đất cho bồn hoa sau nhà mình, cách nhà Leeds hai căn. Springfield cùng Graham đi đến cổng sau nhà Parsons rồi đứng cạnh mấy thùng rác nhà ông ta. Nắp thùng rác được xích vào hàng rào.

Springfield dùng thước đo đo lấy chiều cao cột công tơ điện.

Ông đã có ghi chép về tất cả hàng xóm quanh nhà Leeds. Theo ghi chép thì tay Parsons này đã bị cho nghỉ hưu non khỏi ngành bưu điện thể theo yêu cầu của viên quản lý ông ta. Viên quản lý ấy đã báo cáo rằng Parsons “ngày một đãng trí”.

Ghi chép của Springfield cũng có ghi cả những lời đồn đại nữa. Hàng xóm cho hay vợ của Parsons thường ở chỗ em gái mình ở Macon càng lâu càng tốt, còn con trai thì không còn gọi điện thăm hỏi ông ta nữa.

“Ông Parsons, này ông Parsons,” Springfield gọi.

Parsons dựa cái chĩa đào đất vào tường nhà rồi đi ra hàng rào. Ông ta đi xăng đan cùng tất trắng. Đất và cỏ làm bẩn mấy đầu ngón tất. Mặt ông ta hồng lựng.

“Chứng xơ vữa động mạch”, Graham thầm nghĩ. “Tay này vừa uống thuốc”.

“Vâng?”

“Ông Parsons, chúng ta nói chuyện một phút được không? Hy vọng ông có thể giúp được chúng tôi,” Springfield nói.

“Các anh từ công ty điện lực à?”

“Không, tôi là Buddy Springfield từ sở cảnh sát.”

“Thế là về vụ sát nhân rồi. Lúc ấy tôi cùng bà nhà tôi đang ở Macon, như tôi đã khai với cậu sĩ quan…”

“Tôi biết rồi, ông Parsons ạ. chúng tôi muốn hỏi ông về vụ công tơ điện kia. Ông có…”

“Nếu cái… cậu đọc công tơ kia có nói là tôi đã làm gì không phải, thì cậu ta chỉ là…”

“Ồ không phải đâu, ông Parsons, tuần trước ông có thấy một người lạ mặt đọc công tơ điện nhà ông phải không?”

“Không.”

“Ông chắc chứ? Tôi tin là ông đã bảo với Hoyt Lewis rằng có ai đó khác đã đọc công tơ nhà ông trước anh ta.”

“Tôi nói thế đấy. Mà cũng đã đến lúc rồi. Tôi đang theo sát vụ này, và bên ủy ban Dịch vụ Công cộng sẽ nhận được tường trình chi tiết của tôi.”

“Vâng, thưa ông. Tôi đảm bảo họ sẽ xử lý chuyện này. Ông đã trông thấy ai đọc công tơ nhà ông vậy?”

“Đâu phải người lạ đâu, là ai đó bên công ty Georgia Power thôi mà.”

“Làm sao ông bỉết?”

“À thì, anh ta trông giống như nhân viên đọc công tơ thôi.”

“Anh ta mặc đồ gì?”

“Loại quần áo mà bọn họ ai cũng mặc ấy mà, tôi nghĩ thế. Gì nhỉ? Quần áo màu nâu cùng nón lưỡi trai”

“Ông có trông thấy mặt anh ta không?”

“Chả nhớ tôi có thấy không nữa. Tôi đang đứng nhìn ra cửa sổ bếp thì trông thấy thôi. Tôi muốn nói chuyện với anh ta, nhưng lại phải khoác áo choàng vào, và đến khi tôi ra được bên ngoài thì anh ta đã đi mất”

“Anh ta có xe tải không?”

“Tôi nhớ là không nhìn thấy xe gì sất. Chuyện gì thế này? Sao anh lại muốn biết chứ?”

“Chúng tôi đang rà soát tất cả những ai có mặt quanh đây hồi tuần trước. Quan trọng lắm đấy, thưa ông Parsons. Cố hết sức nhớ xem nào.”

“Vậy là về vụ giết người. Các anh chưa bắt được ai hết phải không?

“Chưa”

“Tối qua tôi quan sát cả con phố, mà những mười lăm phút trôi đi vẫn chẳng có được một mống xe tuần tra nào đi ngang qua. Chuyện xảy ra cho nhà Leeds, kinh khủng quá. Bà nhà tôi bấn cả lên. Tôi chẳng biết rồi ai sẽ mua căn nhà ấy đây. Hôm trước tôi có thấy vài tên mọi đen ngó nghiêng căn ấy. Các anh biết đấy, đôi lần tôi phải nói chuyện với Leeds về lũ con của anh ta, nhưng chúng cũng không đến nỗi. Hẳn rồi, anh ta chẳng chịu làm theo những gì tôi gợi ý về sân cỏ nhà anh ta cả. Bộ Nông nghiệp đã phát cho mấy tờ rơi vô cùng hữu ích về cách khống chế cỏ dại. Rốt cuộc tôi chỉ biết bỏ mấy tờ rơi ấy vào hộp thư nhà anh ta. Nói không phải chứ, khi anh ta mà cắt cỏ thì mùi hành dại nồng nặc đến không thở nổi.”

“Ông Parsons này, chính xác là ông nhìn thấy người kia trong con hẻm khi nào?” Springfield hỏi.

“Tôi không chắc lắm, đang cố nghĩ cho ra đây.

“Ông có nhớ ra buổi nào trong ngày không? Sáng? Trưa? Hay chiều?”

“Tôi biết các thời khắc trong ngày mà, anh không cần phải kể ra như thế. Có lẽ là buổi trưa. Chả nhớ.”

Springfield day day gáy. “Xin thứ lỗi, thưa ông Parsons nhưng tôi phải tìm hiểu cho cặn kẽ. Cho phép chúng tôi vào bếp nhà ông để ông chỉ cho chúng tôi xem nơi ông đã trông thấy người kia nhé?”

“Đưa tôi xem phù hiệu. Cả hai anh”

Bên trong nhà tịch mịch, các bề mặt bóng loáng, không khí tù đọng. Gọn ghẽ. Ngăn nắp. Thứ trật tự tuyệt vọng của một cặp vợ chồng già nhìn ra cuộc đời mình đang bắt đầu nhòa đi.

Graham ước chi mình ở lại bên ngoài. Anh chắc mẩm các ngăn kéo kia chứa dao nĩa bóng lộn nhưng giữa các răng nĩa vẫn còn mắc lại trứng.

Thôi ngay đi mà ép cha già kia nói ra.

Cửa sổ trên bồn rửa chén trong bếp nhìn ra hết cảnh khu vườn sau.

“Đấy. Mấy anh vừa lòng chưa?” Parsons hỏi. “Các anh có thể nhìn thấy ngoài kia từ đây. Tôi chẳng nói gì với cậu ta, tôi không nhớ cậu ta trông như thế nào cả. Nếu chuyện chỉ có thế, thì tôi còn nhiều việc phải làm lắm đây”

Mãi đến đây Graham mới lên tiếng. “Ông bảo ông vào nhà mặc áo khoác vào, rồi khi ông trở ra thì gã kia đã đi mất. Vậy thì lúc đó ông không mặc quần áo gì đúng không?”

“Đúng.”

“Giữa buổi chiều ư? Khi đấy ông không được khỏe sao, ông Parsons?”

“Tôi làm gì trong nhà tôi là chuyện của tôi. Tôi có thể mặc đồ thú nhồi bông trong nhà này nếu tôi muốn đấy. Sao anh không lo mà đi tìm kẻ sát nhân đi? Chắc là trong nhà này mát mẻ quá chứ gì.”

“Tôi biết là ông đã về hưu, ông Parsons ạ, nên tôi nghĩ việc hằng ngày ông có mặc quần áo hay không cũng không quan trọng gì. Lắm ngày ông lại chẳng mặc gì ấy chứ, tôi nói có phải không nhỉ?”

Gân máu vằn lên bên hai thái dương ông Parsons. “Tôi về hưu không có nghĩa là hằng ngày tôi không mặc quần áo chỉnh tề hay không bận công chuyện gì đâu nhé. Chỉ là tôi thấy nóng nên vào nhà tắm một phát thôi. Khi đấy tôi đang làm việc. Tôi đang phủ mùn cây, mà đến xế chiều thì tôi đã làm hết việc cả một ngày rồi, nhiều hơn việc mà hôm nay anh sẽ làm đấy.”

“Khi đấy ông đang làm gì kia?”

“Đang phủ mùn cây.”

“Ông phủ mùn cây vào ngày nào?”

“Thứ Sáu. Thứ Sáu tuần trước. Người ta cho chở mùn đến vào buổi sáng, một xe to, nên tôi phải làm… đến chiều là tôi phủ hết mùn. Anh có thể hỏi bên Garden Center xem chừng đấy là bao nhiêu nhé.”

“Rồi ông thấy nóng nên vào nhà tắm một cái. Rồi ông làm gì trong bếp?”

“Đang pha ly trà đá.”

“Rồi ông lấy ra ít đá chứ gì? Nhưng tủ lạnh ở kia cơ mà, cách xa cửa sổ ấy.”

Parsons nhìn từ cửa sổ ra tủ lạnh, trông vừa bối rối vừa thẫn thờ. Hai mắt ông ta mờ đục, như mắt con cá trong buổi chợ chiều. Rồi đôi mắt bừng lên đắc thắng. Ông ta đi đến tủ nhỏ cạnh bồn rửa.

“Tôi đứng ngay đây, đang lấy túi đường ăn kiêng thì tôi nhìn thấy người đó. Đúng thế. Có vậy thôi. Này, nếu các anh đã dò xét xong rồi thì…”

“Tôi nghĩ ông ấy nhìn thấy Hoyt Lewis,” Graham bảo.

“Tôi cũng cho là vậy,” Springfield đáp.

“Không phải Hoyt Lewis. Không phải.” Mắt ông Parsons nhòe nước.

“Sao ông biết chứ?” Springfield bảo. “Biết đâu có thể là Hoyt Lewis, còn ông thì chỉ tưởng…”

“Lewis phơi nắng cả ngày nên da nâu. Hắn có mái tóc nhờn bẩn, để tóc mai dài kiểu mấy thằng nhà quê.” Giọng Parsons đã cao lên và ông ta nói nhanh đến mức khó mà hiểu được. “Tôi biết có thế. Đương nhiên đấy không phải là Lewis rồi. Tay này da trắng hơn còn tóc thì vàng hoe. Cậu ta quay sang để ghi ghi chép chép vào sổ nên tôi có thể nhìn thấy bên dưới mũ phía sau của anh ta. Tóc vàng. Sau gáy được cắt tỉa vuông vức.”

Springfield đứng im như tượng, đến khi lên tiếng giọng ông vẫn đầy nghi hoặc. “Thế mặt cậu ta thế nào?”

“Tôi không biết. Có lẽ để ria mép.”

“Như Lewis ấy à?”

“Lewis có ria mép đâu.”

“Ồ,” Springfield nói. “Có phải cậu ta đứng ngang tầm mắt nhìn công tơ không? Cậu ta có phải ngước mắt lên nhìn không?”

“Ngang tầm mắt, tôi đoán thế.”

“Nếu gặp lại cậu ta liệu ông có nhận ra không?”

“Không.

“Cậu ta cỡ bao tuổi?”

“Không già. Tôi không biết”

“Ông có thấy con chó nhà Leeds quanh quẩn đâu gần cậu ta không?”

“Không!”

“Thôi được rồi, ông Parsons, quả là tôi đã lầm” Springfield nói. “Ông thật đã giúp chúng tôi nhiều lắm đấy. Nếu ông không ngại, tôi sẽ cho họa sĩ bên tôi tới đây, ông chỉ việc cho anh ta ngồi ngay bàn bếp nhà ông kia, chắc ông có thể cho anh bạn họa sĩ chút ý tưởng người ông nhìn thấy trông như thế nào. Chắc chắn đấy không phải Lewis rồi.”

“Tôi không muốn tên tôi lên báo nào cả.”

“Không có đâu.”

Parsond đi theo hai người họ ra ngoài.

“Ông chăm cái vườn này khéo lắm đấy, ông Parsons,” Springfield bảo. “Hẳn phải thắng được giải nào đấy ấy nhỉ.”

Parsosns không nói gì. Khuôn mặt ông ta đỏ lựng và suy tư, hai mắt ươn ướt. Ông ta đứng đấy trong chiếc quần soóc thụng cùng đôi xăng đan mà trừng mắt nhìn hai người. Khi Springfield và Graham đi ra khỏi sân, ông ta vơ lấy chĩa ba của mình rồi bắt đầu chọc điên cuồng xuống đất, đốn rạp hết cả hoa, làm bắn tung tóe mùn cây trên cỏ.

Springfield kiểm tra lại radio trên xe. Không một công ty dịch vụ điện nước hay cơ quan quản lý đô thị nào có thể lý giải được về người đàn ông trong hẻm vào ngày trước vụ án mạng. Springfield báo cáo lại mô tả của Parsons và ra chỉ thị cho họa sĩ. “Bảo anh ta vẽ cái cột cùng công tơ điện trước rồi hẵng bắt đầu từ đấy. Anh ta cần phải nương theo nhân chúng”

“Tay họa sĩ của chúng tôi không thích đến nhà nhân chứng làm việc” Springfield nói với Graham khi ông luồn lách chiếc Ford sơn sọc qua làn xe cộ. “Anh ta thích cho các thư ký thấy mình làm việc, trong khi nhân chứng thì đứng đổi hết chân này qua chân kia mà nhìn qua vai anh ta. Nếu muốn tra hỏi ai mà không cần phải dọa cho họ sợ thì đồn cảnh sát là một nơi chán ngắt. Ngay khi có được hình ảnh, chúng ta sẽ đem nó đi gõ cửa từng nhà một trong khu vực quanh đấy.

“Tôi có cảm giác như chúng ta mới có được chút hơi hớm đấy Will. Mơ hồ thôi, nhưng cũng là manh mối, cậu có nghĩ thế không? Này nhé, chúng ta đã ép được cha già khó ưa tội nghiệp kia và ông ta đã nhớ được ra. Giờ thì chúng ta phải tận dụng.”

“Nếu người trong hẻm là kẻ chúng ta đang lùng, thì đây là tin tức tốt lành nhất từ bấy đến giờ” Graham nói. Anh thấy chán ngấy bản thân.

Đúng vậy. Thế có nghĩa là hắn không chỉ xuống xe buýt rồi nổi hứng đi đâu thì đi. Hắn có kế hoạch. Hắn ở lại trong thành phố này qua đêm.

Hắn biết mình sẽ đi đâu trong một hai ngày tới. Hắn có ý tưởng gì đấy. Soi mói một địa điểm, giết hết chó mèo, rồi đến gia đình. Cái kiểu ý tưởng quái gì thế nhỉ?” Springfield ngừng lại. “Hình như là lĩnh vực của cậu rồi, phải không?”

“Vâng, đúng thật. Nếu có ai rành, thì tôi nghĩ chắc là tôi rồi”

“Tôi biết trước đây cậu từng chứng kiến chuyện kiểu như vầy. Hôm trước khi tôi hỏi cậu về Lecter có vẻ cậu không thích lắm, nhưng tôi cần nói với cậu về chuyện này.”

“Được thôi.”

“Hắn đã giết chín người cả thảy, đúng không?”

“Ta biết là chín. Hai người khác không chết.”

“Thế họ ra sao?”

“Một người nằm máy thở trong bệnh viện ở Baltimore. Người còn lại trong bệnh viện tâm thần tư ở Denver.”

“Cái gì đã khiến hắn làm như thế, sao hắn lại điên như vậy?”

Graham đưa mắt ra cửa sổ xe nhìn người ta trên vỉa hè. Giọng anh nghe rời rạc, như thể anh đang đọc chính tả cho một bức thư.

“Hắn làm vậy vì hắn thích, vẫn còn thích. Bác sĩ Lecter không điên đâu, theo bất cứ kiểu điên nào mà ta hay nghĩ đến. Hắn đã làm vài chuyện gớm guốc vì hắn thích trò đấy. Nhưng hắn có thể hoạt động hoàn toàn bình thường nếu muốn.”

“Các nhà tâm lý học gọi đấy là gì vậy – hắn bị làm sao thế?”

“Họ gọi hắn là kẻ thái nhân cách, vì không biết gọi hắn là gì khác. Hắn có một số đặc trưng của chúng mà họ gọi là thái nhân cách. Hắn không biết ăn năn hay cảm thấy có lỗi gì cả. Hắn có biểu hiện đầu tiên và tồi tệ nhất: tàn ác với súc vật từ tấm bé.”

Springfield gầm gừ.

“Nhưng hắn lại không có những biểu hiện khác” Graham nói. “Không lang bạt, không tiền án tiền sự gì với pháp luật. Không nông cạn hay lạm dụng những thứ vặt vãnh, như đa số mấy tay thái nhân cách. Không phải là không nhạy cảm. Người ta không biết phải gọi hắn là gì nữa. Điện não đồ của hắn có đôi ba hình thái kỳ lạ, nhưng người ta không thể nhận định được gì nhiều từ đấy cả.”

“Cậu sẽ gọi hắn là gì?” Springfield hỏi.

Graham ngập ngừng.

“Chỉ với riêng cậu thôi ấy, cậu sẽ gọi hắn là gì?”

“Quái vật. Tôi nghĩ hắn giống như một trong mấy thứ đáng thương lâu lâu được sinh ra trong bệnh viện. Người ta cho nó ăn, giữ nó ấm, nhưng không để nó vào lồng máy và thế là nó chết. Đầu óc Lecter cũng cùng kiểu như thế đấy, chỉ có điều hắn bề ngoài trông bình thường nên không ai biết được cả.”

“Tôi có mấy người bạn cùng làm sếp cảnh sát từ Baltimore đến. Tôi có hỏi họ làm sao mà cậu truy ra được Lecter. Họ bảo là không biết sao cậu làm được vậy? Dấu hiệu đầu tiên là gì, điều đầu tiên nhất mà cậu cảm nhận được ấy?”

“Là trùng hợp thôi” Graham đáp. “Nạn nhân thứ sáu bị giết trong xưởng làm việc của mình. Ông ta sở hữu những dụng cụ mộc và cất đồ dùng đi săn của mình trong xưởng đấy. Ông ta bị đan vào trong bản lỗ nơi treo dụng cụ, và ông ấy đã rách bươm, bị cắt rồi đâm, còn có cả mũi tên trong người. Các vết thương gợi cho tôi nghĩ đến gì đấy. Tôi không thể nghĩ ra đấy là gì.”

“Thế là cậu phải chờ đến các nạn nhân tiếp theo.”

“Phải. Khi đấy Lecter rất máu – hắn xử ba nạn nhân tiếp theo trong vòng có chín ngày. Nhưng nạn nhân thứ sáu này, ông ta có hai vết sẹo cũ nơi đùi. Bác sĩ giải phẫu pháp y kiểm tra với bệnh viện địa phương thì tìm ra được rằng năm năm trước ông này đã ngã từ chỗ nấp trên cây xuống trong khi đang đi săn bằng cung và bị một mũi tên xuyên qua đùi.

“Viên bác sĩ ghi trong hồ sơ là một bác sĩ phẫu thuật trong vùng, nhưng Lecter mới là người đầu tiên chữa cho ông ta – lúc đó hắn đang trực phòng cấp cứu. Tên hắn có trong sổ điểm danh. Vụ tai nạn đó đã lâu lắm rồi, nhưng tôi nghĩ biết đâu Lecter lại có thể nhớ ra điều gì đó có về không ổn về vết thương do mũi tên ấy, nên tôi đến văn phòng tìm hắn. Khi đấy chúng tôi phải chộp lấy bất cứ manh mối nào mà.

“Thời đấy hắn đang làm bác sĩ tâm thần học. Hắn có một văn phòng đẹp lắm. Toàn đồ cổ. Hắn bảo không nhớ gì nhiều về vết thương do mũi tên ấy, chỉ nhớ rằng một trong mấy người bạn cùng đi săn với nạn nhân đã mang nạn nhân vào, thế thôi.

“Nhưng vẫn có điều gì đó làm tôi băn khoăn. Tôi nghĩ là điều gì đó mà Lecter đã nói, hay thứ gì đó trong văn phòng của hắn. Tôi và Crawford nghiền đi ngẫm lại. Bọn tôi kiểm lại hồ sơ, và Lecter chẳng có tiền án tiền sự gì. Tôi muốn được một mình vào trong văn phòng hắn, nhưng chúng tôi không lấy được trát. Chúng tôi không trình được lý do. Thế là tôi quay lại tìm hắn.

“Hôm ấy là Chủ nhật, hắn khám bệnh vào Chủ nhật. Cả tòa nhà trống không chỉ có vài người trong phòng đợi của hắn.

Hắn gặp tôi ngay lập tức. Chúng tôi trò chuyện và hắn đang ra sức lịch sự giúp tôi thì tôi nhìn lên mấy quyển sách y khoa cũ trên kệ sách trên đầu hắn. Và tôi biết đấy chính là hắn.

“Khi tôi nhìn lại hắn, có lẽ nét mặt tôi thay đổi hay sao đấy, chẳng biết nữa. Tôi biết và hắn biết tôi đã biết. Nhưng tôi vẫn không thể nghĩ ra được lý do vì sao. Tôi không tin. Tôi phải tìm hiểu cho ra. Thế là tôi làu bàu gì đấy rồi đi ra khỏi văn phòng hắn, ra đến ngoài sảnh. Ngoài sảnh có lắp điện thoại công cộng. Tôi không muốn đánh động hắn cho đến khi tôi có cứu viện. Tôi đang nói chuyện với tổng đài cảnh sát thì hắn đi đến sau lưng tôi theo lối cửa dành cho nhân viên tòa nhà, chân chỉ mang tất. Tôi chẳng nghe được tiếng hắn đến gần gì cả. Chỉ cảm nhận được hơi thở của hắn thôi, rồi thì… Phần kết anh biết rồi đấy.”

“Nhưng làm sao mà anh biết được chân tướng vậy?”

“Tôi nghĩ có lẽ một tuần sau đấy khi nằm trong bệnh viện thì tôi rốt cuộc cũng đã ngộ ra. Là nhờ bức tranh Wound Man – một hình ảnh minh họa đã được sử dụng rất nhiều trong các loại sách y khoa thời trước như những cuốn mà Lecter có. Hình ảnh này cho thấy nhiều loại vết thương trong chiến trận, tất tần tật chỉ trên một hình thể con người. Tôi từng trông thấy bức tranh này trong một khóa khảo sát mà một bác sĩ pháp y đang giảng dạy tại GWU (đại học George Wasington). Tư thế cùng các vết thương trên người nạn nhân thứ sáu gần như trùng khớp với hình ảnh Wound Man đấy.”

“Tranh Wound Man? Chỉ thế thôi sao?”

“Ừ, đúng thế. Cũng tình cờ mà tôi từng nhìn thấy bức tranh ấy. Ngáp phải ruồi thôi”

“Đúng là ruồi thật.”

“Nếu anh không tin tôi, anh hỏi tôi làm mẹ gì?”

“Coi như tôi không nghe thấy câu này nhé”

“Tốt. Tôi chẳng có ý nói thế. Nhưng chuyện xảy ra là vậy đấy.”

“Okay,” Springfield nói. “Okay. Cảm ơn đã kể cho tôi nghe. Tôi cần phải biết mấy chuyện như thế.”

Mô tả của ông Parsons về người đàn ông trong hẻm cùng các thông tin về chó và mèo là những dấu hiệu khả dĩ về phương thức của kẻ sát nhân: có vẻ như hắn giả làm nhân viên đọc công tơ điện để đi do thám rồi cảm thấy thôi thúc muốn làm hại thú nuôi của mấy nạn nhân trước khi ra tay giết hại gia đình họ.

Vấn đề trước mắt là cảnh sát đang phải đối mặt với quyết định có nên chăng cho công bố rộng rãi giả thiết của họ.

Nếu người dân ý thức được các dấu hiệu nguy hiểm và để mắt trông chừng, cảnh sát có thể nhận được lờỉ cảnh báo trước về đợt tấn công tiếp theo của tên sát nhân – nhưng hắn chắc hẳn cũng theo dõi tin tức.

Hắn có thể sẽ thay đổi thói thường.

Giới cảnh sát vững tin rằng những manh mối mong manh phải được giữ bí mật, ngoại trừ một bản tin đặc biệt gửi đến các bác sĩ thú y cùng các mái ấm cho thú vật trong khắp vùng Đông Nam yêu cầu báo cáo ngay lập tức về những vụ hành hạ thú nuôi.

Như thế có nghĩa là không đưa ra lời cảnh báo đầy đủ nhất cho công chúng. Đây là vấn đề đạo đức, và cảnh sát không thấy an lòng lắm với chuyện này.

Họ tìm lời tư vấn từ tiến sĩ Alan Bloom ở Chicago. Tiến sĩ Bloom cho rằng nếu tên sát nhân đọc được lời cảnh báo trên báo chí, hắn chắc chắn sẽ thay đổi phương thức dò xét địa hình một ngôi nhà. Bất chấp nguy cơ hắn phải đối mặt, ông không nghĩ là tên này có thể ngừng tấn công thú vật. Vị bác sĩ tâm thần này bảo với cảnh sát rằng họ tuyệt đối không nên tưởng rằng còn được hai mươi lăm ngày điều tra phá án – là khoảng thời gian từ đấy đến kỳ trăng tròn tiếp theo vào ngày 25 tháng Tám.

Sáng ngày 31 tháng Bảy, ba giờ đồng hồ sau khi Parsons đưa ra lời mô tả, một quyết định đã được thông qua từ cuộc họp điện đàm giữa cảnh sát vùng Birmingham, Atlanta và Crawford ở Washington: họ sẽ gửi bản tin riêng đến các bác sĩ thú y, sẽ càn quét khu vực quanh đấy trong ba ngày cùng bản phác họa của họa sĩ, rồi hẵng truyền bá thông tin đến các phương tiện truyền thông.

Trong ba ngày đấy Graham cùng các cảnh sát điều tra Atlanta quần khắp phố phường chìa bản phác thảo cho từng hộ dân trong khu vực quanh nhà gia đình Leeds. Chỉ có được một góp ý chỉnh sửa về khuôn mặt trong bản phác thảo, nhưng họ hy vọng có thể tìm được ai đó có thể giúp cho hình vẽ rõ ràng hơn.

Mép bản phác thảo mà Graham đang giữ nhũn hết cả ra vì mồ hôi từ bàn tay anh. Thường thì thuyết phục được cư dân ở đây ra mở cửa chẳng dễ dàng gì. Buổi tối anh thường nằm trong khách sạn phủ phấn rôm lên mấy chỗ nổi sảy do nóng, còn đầu óc anh thì xoay vần vấn đề như thể nó là hình ảnh ba chiều. Anh kiếm tìm cái cảm nhận thường hay dẫn đến ý tưởng. Chẳng tìm được.

Trong khi đấy, khắp Atlanta đã xảy ra bốn vụ chấn thương và một vụ ngộ sát khi người dân nổ súng vào người thân về nhà muộn. Những cuộc gọi trình báo về kẻ rình rập tăng gấp bội và những lời chỉ điểm vô dụng sắp hàng chồng trên các giỏ đựng tại các đồn cảnh sát. Nỗi tuyệt vọng lan tỏa như một dịch cúm.

Crawford từ Washington quay trở lại vào cuối ngày thứ ba và ghé qua chỗ Graham khi anh đang lột đôi tất ướt.

“Nóng quá hả?”

“Cứ lấy một ảnh vẽ hồi sáng mà xem” Graham đáp.

“Khỏi, bản tin thời sự tối nay sẽ đăng đầy lên ấy mà. Cậu đi bộ cả ngày sao?”

“Tôi không lái xe qua vườn nhà người ta được.”

“Tôi nghĩ lần càn quét này sẽ chẳng thu được gì đâu,” Crawford nói.

“Thế à, vậy anh trông chờ tôi làm việc quái gì hả?”

“Làm việc tốt nhất có thể ấy mà, thế thôi.” Crawford đứng lên ra về. “Đôi khi tôi cũng nghiện cái trò vẽ ra việc mà làm sao cho mình thật bận rộn, nhất là sau khi tôi bỏ rượu. Cả cậu cũng nghiện trò đó, tôi cho là thế.”

Graham cáu tiết. Tất nhiên là Crawford nói đúng.

Graham là kẻ lần lựa bẩm sinh, và anh biết chứ. Thời xửa thời xưa lúc còn ngồi trên ghế nhà trường anh dùng tốc độ để bù đắp cho cái thói này. Nhưng giờ anh có còn đi học nữa đâu.

Có một chuyện khác anh có thể làm, và anh đã biết thế từ bao ngày nay rồi. Anh có thể chờ cho đến khi cơn tuyệt vọng trong những ngày cuối cùng trước lúc trăng tròn dồn ép. Hoặc anh có thể làm ngay lúc này, khi còn chút cơ may.

Anh muốn nghe một ý kiến. Một quan điểm lạ lùng anh cần phải chia sẻ; một đầu óc suy luận mà anh phải khôi phục lại sau bao năm dài ấm áp ngủ quên ở vùng Keys.

Các lý do ráp lách cách vào nhau như bánh mấu tàu lượn siêu tốc đang kéo dần lên đợt rơi sâu thứ nhất, và khi lên đến đỉnh, không ý thức được là mình đang bấu vào bụng, Graham nói lón thành lời.

“Tôi phải gặp Lecter.”

Trước
image
Chương 7
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!