Phlôrêntinô Arixa luôn luôn nhớ vụ rắc rối ấy bên cạnh kỉ niệm về một người đàn bà đẫy đà không quen biết ngồi bên cạnh mình. Thoạt đầu buổi lễ công bố giải thưởng, anh phải để ý đến bà vì cái nước da trắng ngà của bà ta, vì mùi thơm thoát ra từ cái khổ người to béo hạnh phúc của bà ta, vì bộ ngực đồ sộ mà trên ve áo có gài một bông hoa ngọc lan giả của bà ta. Bà ta vận bộ váy áo nỉ bó khít lấy cơ thể, một bộ đồ như cái màu đen của đôi mắt háo hức và sôi nổi của bà ta. Mái tóc bà ta đen nhánh ôm lấy vai được giữ chặt bởi chiếc lược của người digan. Bà ta đeo vòng tay, một vòng cổ và vài chiếc nhẫn cùng một loại, tất cả đều bóng lộn. Bà ta còn chấm một nốt ruồi ở má phải. Trong tiếng hoan hô vang lần cuối, với vẻ mặt ái ngại chân thành bà nhìn Phlôrêntinô Arixa.
– Hãy tin rằng tự đáy lòng em rất buồn cho anh, – bà nói với anh.
Phlôrêntinô Arixa cảm động thực sự không chỉ vì lòng thông cảm xứng đáng đối với anh mà còn vì anh ngạc nhiên rằng ai đó cũng đã biết chuyện riêng tư của mình. Bà ta nói rõ: “Em biết được điều đó vì em thấy bông hoa trà cứ rung rinh lay động trên ve áo anh trong lúc cô ta xé bì thư.” Bà chìa cho anh xem bông hoa ngọc lan làm bằng nỉ đang ở trong tay mình và bà ta tự mở lòng mình với anh:
– Vì thế, em cởi bông hoa của em, – bà nói.
Bà ta suýt khóc vì thất bại nhưng Phlôrêntinô Arixa, bằng sự nhạy cảm của kẻ săn đêm, liền cổ vũ bà:
– Chúng ta hãy đi tới một nơi nào đấy để cùng khóc với nhau.
Anh cùng đi với bà về nhà. Bây giờ họ đang đứng trước cửa nhà. Lúc này đã nửa đêm rồi, ngoài đường không một bóng người qua lại. Anh liền thuyết phục bà rằng hãy mời anh uống một cốc brandy trong lúc cùng nhau lần giở cuốn anbom để xem những bức ảnh ghi lại những sự kiện xã hội trong mười năm mà bà ta nói rằng bà ta vẫn giữ được. Mánh khóe đó đã lỗi thời nhưng lần này bất thình lình anh sử dụng, bởi vì bà ta là người đã nói về những tập anbom ảnh trong lúc họ đi bộ từ Nhà hát Quốc gia về nhà. Họ cùng nhau bước vào nhà. Điều đầu tiên Phlôrêntinô Arixa nhìn thấy từ ngoài phòng khách là cánh cửa phòng ngủ duy nhất đang mở cho thấy một chiếc giường rộng và sang trọng, đầu và đuôi giường có dát những cành lá bằng đồng, một chiếc khăn thêu kim tuyến. Chính hình ảnh phòng ngủ ấy khiến anh lúng túng. Có lẽ bà ta cũng nhận ra tâm trạng anh bởi vì bà ta đi vội đến đóng cửa phòng ngủ lại. Sau đó bà mời anh ngồi xuống ghế sôpha có con mèo đang ngủ, rồi bà đặt bộ sưu tập anbom của mình xuống bàn. Phlôrêntinô Arixa thong thả lần giở các trang anbom mà nghĩ nhiều hơn đến những bước sắp tới của câu chuyện giữa hai người rồi bỗng nhiên anh ngước mắt lên và nhìn thấy bà ta ngấn lệ. Anh khuyên bà hãy khóc cho thỏa, không ngần ngại gì cả, bởi vì tiếng khóc có tác dụng làm dịu nhẹ tâm hồn ta. Nhưng bà ta lại yêu cầu anh cởi bộ cúc chiếc nịt vú để mình khóc được dễ dàng hơn. Anh vội vàng giúp đỡ bà, bởi vì chiếc nịt vú được đóng rất chắc chắn nhờ hàng cúc ở phía sau lưng. Nhưng anh cũng chẳng phải cởi cúc, bởi vì chiếc nịt vú vừa mở ra nhờ sức đẩy của chính bà và thế là toàn bộ ngực đồ sộ của bà lộ ra thở căng lên.
Phlôrêntinô Arixa, vốn không bao giờ để mất cú thảng thốt ban đầu cả trong những trường hợp dễ dãi nhất, thong thả cho tâm hồn mình thám hiểm trên làn da bà ta bằng cách lấy ngón tay mơn trớn trên cổ bà, và bà ta rên rỉ trong tiếng rên của bé thơ đang khóc. Thế là anh hôn lên cổ bà, hôn nhẹ nhàng thôi, như đã lấy tay mơn trớn lên chỗ đó vì bà ta ngay lập tức quay ngoắt người lại, đối diện với anh là một thân xác đẫy đà, nóng hôi hổi của bà ta. Hai người ôm lấy nhau lăn lộn vài vòng trên sàn nhà. Con mèo đang ngủ trên sôpha thức dậy, kêu ư ử rồi nhảy chồm qua thân xác hai người. Bọn họ dò tìm lẫn nhau và đã gặp được nhau bất kể hình thức nào, đang ôm nhau lăn lộn trên đống anbom rách gáy, trên đống quần áo, người đầm đìa mồ hôi, và họ cũng chẳng thèm tránh những cú cào đầy giận dữ của con mèo vốn bị họ vô ý chọc tức. Từ đêm sau trở đi, bất chấp những vết xước còn rỉ máu do mèo cào trên người, họ tiếp tục làm tình với nhau, cứ như vậy trong vài năm liền.
Khi anh nhận ra rằng mình bắt đầu yêu bà thì bà đã ở thời kỳ hồi xuân của tuổi tứ tuần, còn anh gần tròn ba mươi tuổi. Bà ta tên là Xara Nôriêga, người từng có mười lăm phút được chúc mừng vì đã giật giải nhất với cuốn thơ nói về tình yêu của những người nghèo nhưng nó chẳng bao giờ được xuất bản. Bà là giáo viên dạy môn Nếp sống văn minh và môn Khái niệm về Luật hình sự tại các trường công và sống bằng đồng lương của mình trong một căn nhà thuê ở khi phố cổ Hêtxêmani. Bà từng có vài ba người yêu nhưng không một ai bà nghĩ rằng sẽ cưới làm chồng, vì thật là khó mà tìm được một người đàn ông cùng hoàn cảnh và cùng lứa tuổi với bà chịu cưới làm vợ một người phụ nữ mà anh ta đã ăn nằm trước khi cưới xin. Ngay chính bà cũng không nghĩ đến chuyện nuôi ảo tưởng ấy sau mối tình chính thức đầu tiên. Lần ấy bà yêu một thanh niên mười tám tuổi, người từng yêu bà say đắm đến mức có thể làm bất cứ điều gì nhưng chính anh ta chạy trốn trách nhiệm của mình một tuần trước ngày làm lễ thành hôn đã định để bà mất mặt với thiên hạ về cô người yêu bị sỏ mũi, hay đúng hơn là tai tiếng về một cô gái chưa chồng mà con ong đã tỏ đường đi lối về, như cách nói của thời ấy. Tuy nhiên, cái kinh nghiệm đầu tiên ấy, vừa phũ phàng vừa nhất thời, không hề để lại trong bà một mảy may ý nghĩ hờn tủi mà chỉ để lại một ý nghĩ sáng tỏ rằng có chồng hay không có chồng, có Thượng đế hoặc không có luật lệ, sống chỉ đáng sống khi ở trên giường lúc nào cũng có một người đàn ông. Điều mà Phlôrêntinô Arixa thích thú ở bà ta hơn cả là khi làm tình với nhau bà ta phải mút cái đầu vú giả của trẻ con để đạt tới đỉnh cao của sự khoái cảm giữa hai người. Họ đã có cả một xâu đủ mọi cỡ to nhỏ, đủ mọi hình hài, đủ mọi màu sắc những cái vú giả mà họ thấy ngoài chợ và Xara Nôriêga treo ngay ở đầu giường để có thể lần tìm được trong những lúc khẩn thiết.
Mặc dù bà ta cũng như anh không bị ràng buộc gì và hơn nữa có thể bà ta không phản đối công khai hóa quan hệ giữa hai người nhưng ngay từ lúc đầu Phlôrêtinô Arixa đã ra điều kiện: hai người chỉ quan hệ với nhau thật kín đáo và coi mối quan hệ này như một cuộc mạo hiểm thầm kín. Anh khẽ khàng lách mình vào cửa sau, bao giờ cũng vào lúc đêm rất khuya và lẻn ra về trước khi trời hửng sáng một lúc. Anh cũng như bà đều biết rõ rằng một trong những ngôi nhà chung đụng và đông người như nhà của bà ta, sớm muộn gì hàng xóm cũng biết rõ chuyện của hai người mặc dù họ cố tình che giấu để đánh lừa hàng xóm. Dù chỉ là một hình thức đơn giản, Phlôrêntinô Arixa luôn luôn là như vậy, như anh thường đối xử với những cô gái khác trong suốt cuộc đời anh. Không bao giờ anh phạm một khuyết điểm không những với bà mà cả với những người đàn bà khác, cũng không bao giờ phạm tội phản bội. Nói như thế hoàn toàn không hề cường điệu một tí nào cả. Chỉ có một lần anh để lại dấu ấn của sự cam kết và suýt nữa cả hai phải trả giá bằng cả cuộc đời. Trên thực tế anh ứng xử như là một người chồng vĩnh viễn của Phecmina Đaxa, một người chồng chung thủy nhưng kiên trì, giải thoát mình khỏi chính sự trói buộc của bản thân nhưng không làm cho Phecmina Đaxa phải khó chịu vì nhận thấy anh phản bội mình.
Sự kín đáo tương tự như thế không thể tiếp tục mà không bị nhầm lẫn. Chính bà Tranxitô Arixa khi chết vẫn tin rằng đứa con được hoài thai nhờ tình yêu và được nuôi dưỡng cho tình yêu đã được miễn dịch trước mọi hình thức của tình nhờ ở chính sự thất vọng đầu tiên trong tuổi thanh niên của nó. Tuy nhiên, rất nhiều người tốt gần gũi anh hơn cả, những người biết rõ cá tính bí hiểm và sở thích những bộ quần áo thần bí và các loại nước hoa lạ lẫm của anh đều cùng có chung mối hồ nghi rằng anh chỉ được miễn dịch trước phụ nữ chứ không phải miễn dịch trước tình yêu. Phlôrêntinô Arixa biết rõ điều đó nhưng không bao giờ chịu cải chính. Xara Nôriêga cũng chẳng thèm bận tâm đến điều đó như vô số những cô gái khác anh yêu, và ngay cả những người đàn bà làm cho anh sung sướng và cũng sung sướng với anh, bà ta chấp nhận điều đó như một điều hiển nhiên: anh chỉ là một người đàn ông tạm bợ mà thôi. Anh đã tiến đến chỗ có mặt ở nhà bà vào bất kỳ thời giờ nào, nhất là vào buổi sáng ngày chủ nhật, vốn là những ngày thanh nhàn hơn cả. Bà ta liền bở dở công việc đang làm, dù việc gì cũng mặc lòng, rồi toàn tâm sức hiến thân cho anh ngõ hầu làm cho anh hạnh phúc ngay trên chiếc giường rộng lúc nào cũng được chuẩn bị sẵn cho anh và nó cũng là chiếc giường mà chẳng bao giờ bà ta cho phép anh có những hành động mang tính chất lễ nghi. Phlôrêntinô Arixa không hiểu nổi người đàn bà chưa hề có chồng làm sao lại có thể hiểu được kĩ lưỡng người đàn ông đến như vậy và cũng không hiểu làm sao bà ta điều khiển được thân thể ngọt ngào của mình rất lẹ làng và dịu hiền đến mức như một con cá heo đang bơi ở dưới nước. Bà ta tự bào chữa bằng cách nói rằng: “Trước hết, tình yêu là một tài nghệ bẩm sinh”. Bà ta bảo: “Hoặc con người sinh ra đã biết rồi hoặc chẳng bao giờ biết”. Phlôrêntinô Arixa đau thắt lòng nghĩ rằng bà ta phóng đãng hơn là điều bà ta giả vờ nhưng ngay lập tức anh buộc phải nuốt giận làm lành bởi vì anh cũng nói với bà ta, như từng nói với tất cả các cô gái khác, rằng bà ta cũng như họ là nhân tình duy nhất của mình. Giữa những việc anh ít thích thú, có việc anh cần phải bằng lòng với việc để con mèo cùng nằm trên giường. Đó là con mèo hay ghen nên Xara Nôriêga đã bọc móng nó lại để trong khi bọn họ ân ái với nhau nó không thể cào vào người họ.
Tuy nhiên, trong lúc họ gần như đạt đến đỉnh cao của lạc thú nhờ vần nhau trên giường cho đến khi mệt lử, bà ta vẫn thích giành những phút giây mệt mỏi sau khi làm tình cho thơ ca vốn được bà ta sùng kính. Không những bà có một trí nhớ đáng phục với những bài thơ trữ tình của thời đại mình, những bài thơ mới lạ của loại thơ ca này được in thành sách mỏng với giá hai hào được bán rong ngoài đường, mà ta còn lấy kim găm những bài thơ bà thích thú nhất lên tường để có thể giọng rung ngân nhất bà đọc vào bất cứ lúc nào. Bà ta cũng đã từng lấy các bài học Nếp sống văn minh và Khái luận về Luật hình sự vận thành thơ mười hai chân kiểu như người ta vẫn đặt thơ để nhớ mặt chữ mà viết cho đúng chính tả, nhưng những bài thơ này không được dư luận công chúng tán thưởng.
Đó là niềm hứng khởi đến cao độ của bà ta từng được tuyên bố mà đôi lúc trong khi ân ái với nhau bà vẫn ngâm vang những vần thơ, và Phlôrêntinô Arixa phải lấy cái vú giả của trẻ em nhét thật lực vào miệng bà gần như thể nhét nó vào miệng đứa bé đang khóc để nó nín đi.
Lúc quan hệ yêu đương của họ nở rộ nhất, Phlôrêntinô Arixa đã hỏi bà ta rằng một trong hai trạng thái: nằm trên chiếc giường kêu cọt kẹt và trạng thái ngồi trong những buổi chiều thanh bình ngày chủ nhật, đối với bà trạng thái nào là tình yêu thì Xara Nôriêga đã an ủi anh bằng một luận cứ rất đơn giản rằng khi nào cả hai đều khỏa thân thì khi ấy là tình yêu. Bà ta bảo: “Tình yêu tâm hồn được kể từ thắt lưng trở lên còn tình yêu xác thịt kể từ thắt lưng trở xuống”. Đối với Xara Nôriêga cái định nghĩa này rất hay để cấu tứ một bài thơ về tình yêu được phân định, một bài thơ mà cả hai người cùng viết bằng bốn tay và là một bài thơ bà ta định gửi đi tham dự Dạ hội Thơ ca vì bà nghĩ rằng không một ai cho đến lúc ấy đã sáng tác được một bài thơ mới lạ như vậy. Nhưng nó đã không trúng giải.
Xara Nôriêga cứ hậm hực trong lòng hoài trong lúc Phlôrêntinô Arixa đưa bà về nhà. Bởi có một điều bà không giải thích được nên bà cứ nghĩ rằng việc không tặng giải cho bài thơ của mình là một thủ đoạn của Phecmina Đaxa nhằm chống lại bà. Phlôrêntinô Arixa trong lúc cùng đi, không để ý đến bà. Anh đang buồn rầu kể từ lúc trao giải thưởng bởi từ lâu nay anh không nhìn thấy Phecmina Đaxa đã là một bà mẹ. Điều đó chẳng có gì lạ vì con trai của Phecmina Đaxa đã đi học. Tuy nhiên, nếu cái tuổi làm mẹ của Phecmina Đaxa trước đây vẫn chưa hiện rõ nét thì đêm ấy, trước anh nó đã được bộc lộ rõ phần vì eo lưng xổ ra đôi chút và cách đi đứng có thư thái hơn, phần vì giọng nói không được trong trẻo như xưa khi bà đọc danh sách những bài thơ được giải thưởng.
Anh định nhớ lại những ký ức của mình nên lần giở những trang anbom phản ánh các Dạ hội Thơ ca trong lúc Xara Nôriêga đi chuẩn bị cái ăn. Anh thấy tờ bìa những tờ tạp chí, những tấm bưu thiếp ngả màu vàng thuộc loại vẫn được bày bán và cứ thế anh trở về với quá khứ, nó như một sự ôn lại đầy huyền ảo cái sự trớ trêu của cuộc đời mình. Cho đến lúc này anh vẫn duy trì quan niệm viển vông cho rằng thế giới là cái đang biến đổi mà theo nó phong tục, mốt thời trang cũng thay đổi, tất cả đều thay đổi trừ Phecmina Đaxa. Nhưng đêm ấy, lần đầu tiên trong đời, bằng một hình thức sáng tỏ anh thấy cuộc đời đang làm thay đổi Phecmina Đaxa như thế nào, thấy cuộc đời của chính anh cũng thay đổi như thế nào trong khi anh không làm gì ngoài việc chờ đợi. Chẳng bao giờ anh nói chuyện với ai về Phecmina Đaxa bởi vì anh tự biết rằng mình không đủ khả năng nói đến tên bà mà làn môi mình không tái nhợt đi. Nhưng đêm ấy, trong lúc anh giở các trang anbom như biết bao đêm thức trắng buồn tẻ trong ngày chủ nhật anh từng làm, Xara Nôriêga đã có được một trong những cảm nhận sáng rõ bất chợt đến từng làm lạnh bầu máu nóng trong người bà.
– Một con đĩ, – bà nói.
Bà ta nói vậy khi đi qua chỗ anh nhìn thấy bức ảnh chụp Phecmina Đaxa đóng giả con báo đen trong vũ hội giả trang và bà chẳng cần phải nói rõ tên để Phlôrêntinô Arixa biết rằng bà nói đến ai. Vì sợ mối quan hệ nào đấy có thể làm đảo lộn cuộc đời mình, anh vội vàng tự vệ một cách thận trọng. Anh bảo rằng anh chỉ quen biết Phecmina Đaxa từ xưa, rằng chưa bao giờ hai người chào hỏi nhau, rằng anh không hề biết một tí gì về đời tư bà ta nhưng anh thú nhận bà ta là một người phụ nữ làm nên sự nghiệp của mình từ tay không và trở nên nổi tiếng nhờ chính những công tích của mình.
– Không phải thế đâu. Bà ta được như ngày hôm nay là nhờ có một cuộc hôn nhân vụ lợi với một người đàn ông mà bà ta không yêu, – Xara Nôriêga ngắt lời anh. – Đó là cái cách hèn mạt nhất để làm điếm đấy anh ạ.
Bà Tranxitô Arixa cũng đã nói như thế với Phlôrêntinô Arixa để an ủi anh trong những ngày anh thất tình nhưng bà nói không gay gắt như thế mà vẫn giữ được tính chất nghiêm khắc trong cách nhìn đạo đức. Bị ớn lạnh tới tận tủy nhưng anh không tìm thấy một câu trả lời nào cho thật đúng lúc để đáp lại lời thóa mạ của Xara Nôriêga và do vậy anh cố tình lảng tránh câu chuyện. Nhưng Xara Nôriêga không để anh lảng tránh chừng nào anh chưa chịu đứng về phía mình để cùng công kích Phecmina Đaxa. Chỉ bằng một nhận thức cảm tính không thể giải thích được, Xara Nôriêga cứ khăng khăng cho rằng Phecmina Đaxa là tác giả cái mưu toan không trao giải cho bài thơ của mình. Thực ra, không có lấy một lý do nào để có thể tin được điều đó họ không quen biết nhau, không nhìn thấy nhau bao giờ và Phecmina Đaxa hoàn toàn không có liên quan gì với việc tổ chức cuộc thi thơ, nếu như chuyện riêng tư của Phlôrêntinô Arixa với Phecmina Đaxa trước đây vẫn được giữ kín. Bằng một hình thức dứt khoát, Xara Nôriêga nói: “Đàn bà chúng tôi đều là thầy bói cả đấy, anh ạ”. Và thế là bà ta chấm dứt cuộc tranh luận giữa hai người.
Từ lúc đó trở đi, Phlôrêntinô Arixa bắt đầu nhìn Xara Nôriêga bằng một con mắt khác. Đối với bà ta năm tháng cũng qua đi. Tính tình sôi động trẻ trung của bà ta cũng héo tàn đi vô phương cứu vãn, tình yêu của bà ta cũng chỉ đọng lại trong lúc khóc sụt sùi, vì hai quầng mắt bà bắt đầu thâm quầng, biểu hiện không thể chối cãi được của những người đàn bà già nua đang chịu đắng cay. Bà ta là một bông hoa của hôm qua rồi. Mặt khác, trong lúc lòng hậm hực vì bài thơ không được trao giải, bà ta không để ý đến cốc rượu brandy của mình: trong lúc bọn họ ăn cơm trộn với dừa được hâm nóng lại, bà ta cân nhắc xem ai đóng góp ít ai đóng góp nhiều vào việc sáng tác bài thơ không trúng giải rồi trên cơ sở đó mà biết mỗi người đáng được bao nhiêu cánh hoa của Bông Lan vàng kia. Không phải là lần đầu tiên bọn họ giải trí trong các cuộc hội thi của người Bixăngty nhưng anh lại nhân cơ hội này để nhấm nháp cái đau của vết thương vừa mới mở và cả hai người lại lao vào cãi lộn vô ích từng trả lại cho họ những nỗi niềm ân hận của năm năm yêu thương.
Khi chỉ còn mười phút nữa thì đúng mười hai giờ đêm, Xara Nôriêga treo lên một chiếc ghế để lên dây cót chiếc đồng hồ quả lắc và bằng cách này bà nhắc anh nhớ đến giờ giấc, có lẽ bà muốn nói mà không cần phải nói ra miệng rằng đã đến giờ anh nên ra về rồi. Lúc ấy Phlôrêntinô Arixa cần phải nhanh chóng cắt đứt tận gốc mối quan hệ xác thịt không có tình yêu giữa hai người và anh tìm cơ hội để mình là người giữ phần chủ động như lâu nay anh vẫn làm như vậy. Anh thầm cầu mong Thượng đế giúp Xara Nôriêga sẽ cho phép mình nằm lại trên giường bà để anh còn nói với bà rằng không, rằng giữa họ với nhau bây giờ chẳng còn gì nữa. Anh mời bà ngồi bên cạnh mình khi bà ta lên xong dây cót đồng hồ. Nhưng bà ta cố ý giữ một khoảng cách nhất định nên đã ngồi xuống chiếc ghế xalông của khách. Phlôrêntinô Arixa chìa cho bà ta ngón tay ướt rượu brandy để bà ta mút nó như bà ta vẫn thích làm động tác này trước khi hai người ân ái với nhau. Bà ta liền tránh ngón tay:
– Bây giờ thì không, – bà ta nói. – Tôi đang đợi chờ một người khác.
Kể từ khi bị Phecmina Đaxa ruồng bỏ, Phlôrêntinô Arixa đã học để biết cách giữ cho mình là người có những quyết định cuối cùng. Trong hoàn cảnh khác ít cay đắng hơn có lẽ anh đã đứng vững trước thái độ tẩy chay của Xara Nôriêga và chắc chắn hai người sẽ lại vần nhau ở trên giường cho đến khi tàn đêm bởi vì anh tin rằng một người đàn bà đã ăn nằm với một người đàn ông một lần thì sẽ tiếp tục ăn nằm với anh ta mỗi khi anh ta muốn miễn là lúc nào cũng phải biết cách làm mủi lòng cô ta. Bởi niềm tin ấy đã là tất cả, anh đã vượt lên tất cả, kể cả những cuộc mặc cả bẩn thỉu của ái tình, với mục đích không để cho bất cứ người đàn bà nào có điều kiện nắm lấy quyền quyết định cuối cùng. Nhưng đêm ấy, anh cảm thấy nhục nhã quá lắm đến mức anh cầm cả cốc rượu brandy uống ực luôn một ngụm, và làm tất cả để bà ta nhận ra thái độ căm phẫn của mình rồi bỏ ra về không hề chào tiễn biệt. Chẳng bao giờ họ gặp lại nhau nữa.
Quan hệ với Xara Nôriêga là một quan hệ trong những quan hệ dài lâu và ổn định nhất của Phlôrêntinô Arixa, mặc dù nó không phải là mối quan hệ duy nhất mà anh duy trì trong năm năm ấy. Khi anh biết rằng mình cảm thấy hạnh phúc khi ở bên cạnh bà, nhất là khi cả hai cùng trên giường, nhưng không bao giờ anh có thể lấy bà thay cho Phecmina Đaxa, thì các đêm của kẻ đi săn cô đơn của anh liền trở nên sôi nổi hơn, do đó anh phải tổ chức các đêm ấy một cách hợp lý để có thể tận dụng thời gian và sức lực của mình đến mức cao nhất. Tuy nhiên Xara Nôriêga giành được phép màu để an ủi anh trong một thời gian. Chí ít ra anh cũng có thể sống mà không nhìn thấy Phecmina Đaxa, vẫn trong xa cách như trước đây, khi vào bất kỳ giờ nào anh ngừng cái việc cần phải làm để có thể tìm cô gái trên con đường không rõ ràng do những điềm báo mách bảo anh, trên con đường ít nghĩ tới nhất, trong những địa điểm không có thực vốn là nơi cô gái không thể có mặt, cứ thế anh lang thang không phương hướng với nỗi khát khao trong lồng ngực vốn không để cho anh yên lấy một lúc khi chưa nhìn thấy cô gái. Trái lại, việc cắt đứt quan hệ với Xara Nôriêga lại một lần nữa khiến anh náo nức sống lại những nỗi niềm hoài nhớ từng ngủ yên, lại một lần nữa anh cảm nhận rõ nét những kỉ niệm xưa: những buổi chiều ngoài vườn hoa và những lần tập đọc không dứt của cô gái mình yêu, nhưng lần này càng sống động hơn, càng tươi rói hơn bởi một niềm mong muốn bức thiết rằng bác sĩ Huvênan Ucbinô cần phải chết.