Khi chàng bước vào nhà Sonya, trời đã hắt đầu xẩm tôi. Suốt ngày hôm ấy. Sonya bồn chồn lo lắng khác thường.
Nàng với Dunia cùng chờ đợi. Dunia đến nàng từ sáng sớm, vì nhớ rằng hôm nay, Xvidrigailov có nói là Sonya “biết chuyện ấy”. Chúng tôi sẽ không kể lại tỷ mỉ việc hai người con gái đã nói chuyện, than khóc với nhau ra sao, họ đã hiểu nhau đến thế nào.
Qua cuộc gặp gỡ ấy, Dunia ít nhất cũng được một niềm an ủi là anh nàng sẽ không cô đơn: chàng đã đến tự thú với Sonya trước tiên: chàng đã đến tìm ở nàng một con người khi chàng thấy cần một con người; cũng chính nàng sẽ đi theo chàng đến nơi số phận đã định. Dunia cũng không hỏi nữa, song nàng biết là sẽ như thế. Thậm chí nàng còn nhìn Sonya một cách sùng kính và lúc đầu đã suýt làm cho Sonya bối rối vì lòng sùng kính ấy.
Thậm chí Sonya còn suýt khóc oà lên nữa: nàng nghĩ khác hẳn, nàng còn tự cho mình không xứng đáng được nhìn Dunia nữa là khác. Hình ảnh tuyệt vời của Dunia chào nàng một cách ân cần và tôn kính hôm họ gặp nhau lần đầu ở nhà Raxkonikov, từ đấy đã vĩnh viên khắc sâu vào lòng nàng như một trong những hình ảnh đẹp đẽ và cao cả nhất đã xuất hiện trong đời nàng.
Cuối cùng Dunia sốt ruột quá không chịu được nữa; nàng từ giã Sonya để đến nhà anh và ngồi đợi chàng ở đấy; nàng cứ có cảm giác rằng chàng sẽ về đây trước tiên. Ngồi lại một mình, Sonya lập tức quay ra lo sợ cuống cuồng lên. Nàng nghĩ có lẽ chàng tự tử thật cũng nên. Chính Dunia cũng sợ như thế. Nhưng suốt ngày cả hai đều ra sức tìm đủ các lý lẽ để làm cho nhau tin là việc ấy không thể xảy ra được, và họ thấy yên tâm hơn, khi đang ngồi cạnh nhau. Nhưng vừa chia tay nhau một cái, là cả hai lại chỉ nghĩ đến mỗi một việc ấy nữa mà thôi. Sonya nhớ rằng hôm qua Xvidrigailov có nói với nàng là Raxkonikov chỉ có hai con đưòng: đi Vladimirka hay là… Hơn nữa nàng lại biết rõ tính sĩ diện, ngang ngược, tự ái và óc vô thần của chàng. “Chả nhẽ chỉ có sự nhát gan, tâm lý sợ chết là có thể buộc chàng sống” – Cuối cùng nàng thầm nghĩ trong cơn tuyệt vọng. Trong khi đó, mặt trời đã lặn. Nàng buồn rầu đứng trưtớc cửa sổ nhìn đăm đăm phía trước mặt, nhưng qua khung cửa sổ chỉ thấy bức tường lớn không quét vôi của toà nhà bên cạnh. Cuối cùng, khi nàng đã dần dần đi đến chỗ tin chắc rằng người khốn nạn đã chết thì Raxkonikov bước vào phòng nàng.
Một tiếng reo mừng buột ra khỏi lồng ngực nàng. Nhưng nhìn kỳ vẻ mặt chàng, nàng bỗng tái mặt đi.
– Đúng rồi ấy? – Raxkonikov cười nhạt nói – Tôi đến lấy mấy cái thánh giá của em đây, Sonya ạ. Chính em đã bảo tôi ra ngã tư đưòng: bây giờ đã đến lúc thực hiện, em lại đâm ra sợ sệt hay sao!
Sonya kinh ngạc nhìn chàng. Nàng thấy cái giọng ấy những lời ấy đều là giả tạo. Vả lại trong khi nói với nàng, chàng cùng nhìn đâu vào góc nhà tưởng như tránh nhìn thẳng vào mặt nàng.
– Sonya ạ, tôi đã suy nghĩ hiểu ra rằng như thế có lẽ lợi hơn. Trong trường hợp nầy có điều… Thôi, nói ra thì dài lắm, mà cũng chẳng cần nói làm gì! Nhưng em có biết cái gì làm cho tôi bực mình không? Tôi bực mình là vì cả cái lũ đần độn, nửa người nửa ngợm ấy sẽ xúm lấy tôi, sẽ nhìn xỉa xói vào tôi, sẽ hỏi tôi những câu ngu xuẩn mà tôi buộc phải trả lời, sẽ chỉ trỏ tôi… Xì! Sonya ạ, tôi sẽ không đến Porfiri đâu, tôi chán hắn lắm rồi. Tôi sẽ đến ông bạn “Thuốc Súng” của tôi thì hơn, tôi sẽ làm cho ông ta ngạc nhiên một mẻ, tôi sẽ gây được một ấn tượng đặc biệt.
Nhưng lẽ ra phải điềm tĩnh hơn: dạo nầy tôi để phát bẳn quá. Em có tin được không; vừa rồi tôi suýt giơ quả đấm ra hăm doạ em gái chỉ vì nó ngoảnh lại nhìn tôi lần cuối cùng đấy. Thật là một tâm trạng thú vật. Chà, sao tôi lại đến nông nỗi nầy! Đâu, thánh giá đâu?
Chàng dường như không tự chủ được nữa. Thậm chí chàng cũng không thể đứng yên tại chỗ lấy một phút, không sao tập trung chú ý vào một vật gì; ý nghĩ của chàng cứ nháy từ chuyện nầy sang chuyện khác, chàng nói lảm nhảm chẳng đâu vào với đâu; tay chàng run run.
Sonya lặng lẽ lấy trong ngăn kéo ra hai chiếc thánh giá, một chiếc bằng gỗ huyền bá, một chiếc bằng đồng, làm dấu thánh cho mình, rồi cho Raxkonikov và đeo chiếc thánh giá bằng gỗ huyền bá lên ngực chàng.
– Thế ra đây là một cử chỉ tượng trưng: có nghĩa là tôi vác lấy cây thập tự(l), hê, hê! Cứ như thế là trước nay tôi đau khổ còn ít quá! Bằng gỗ huyền bá tức là của hạng bình dân; cái bằng đồng là của Lizaveta thì em giữ, cho tôi xem tí? Thế lúc ấy… bà ta đeo cái nầy à? Tôi cũng có biết hai chiếc thánh giá giống như thế. Một chiếc bằng bạc, một chiếc có đính tượng. Hôm ấy tôi ném cả hai lên ngực mụ già. Lẽ ra bây giờ tôi đeo hai chiếc ấy thì phải hơn, thật đấy, nhưng tôi cứ nói nhảm mãi, quên cả công việc; tôi đãng trí thế nào ấy! Sonya ạ, tôi đến là để báo trước cho em biết… Ấy chỉ có thế… Tôi đến đây chỉ vì thế (Hừm, thế nhưng trước đây tôi cứ tưởng là sẽ nói nhiều hơn). Mà chính em cũng muốn tôi đi, thế thì tôi sẽ vào tù, và em sẽ toại nguyện; kìa sao em lại khóc? Em cũng thế à? Thôi, đừng khóc nữa; ôi, tôi thật khổ với những chuyện nầy!
Tuy vậy, cũng có một cảm xúc nảy sinh trong lòng chàng; chàng nhìn nàng, lòng se lại: “Người nầy, người con gái nầy thì sao? – Chàng thầm nghĩ, – đối với nàng ta có nghĩa lý gì? Sao nàng lại khóc, sao nàng lại sửa soạn cho ta như mẹ và em ta thế. Nàng sẽ làm bảo mẫu cho ta!”.
– Anh làm dấu mà cầu nguyện đi, một lần thôi cũng được, – Sonya cầu khẩn, giọng rụt rè, run rẩy.
– Ô tuỳ ý em, bao nhiêu lần cũng được! Tôi rất sẵn lòng, Sonya ạ, rất sẵn lòng.
Thật ra chàng muốn nói một cái gì khác.
Chàng làm dấu thánh mấy lần. Sonya với lấy chiếc khăn, trùm lên đầu. Đó là một chiếc khăn trùm bằng da mịn, có lẽ chính chiếc khăn mà dạo trưđc Marmelazov có nói là “khăn chung của gia đình”, Raxkonikov thoáng nghĩ như vậy, nhưng chàng không hỏi: Quả nhiên, chính chàng cũng bắt đầu cảm thấy mình đãng trí lạ lùng và tự dưng lo âu một cách vô lý. Điều đó khiến chàng hoảng sợ. Chàng cũng chợt thấy sợ hãi khi thấy Sonya muốn cùng đi với chàng.
– Kìa? Em đi đâu! Ở nhà, ở nhà! Tôi đi một mình – Chàng quát lên, bực dọc và sợ sệt rồi đi ra cửa, vẻ hầu như hằn học. – Việc gì phải đi cả một đoàn tiền hô hậu ủng như thế – Chàng lẩm bẩm trong khi bước ra ngoài.
Sonya đứng lại một mình ở giữa căn phòng. Chàng cũng không từ biệt nàng nữa, chàng đã quên khuấy nàng đi rồi; một mối ngờ vực sâu cay, đầy ý phán kháng đang sôi sục trong lòng chàng:
“Nhưng tất cả những việc nầy có phải hay không, có đúng hay không? – Chàng lại nghĩ trong khi bước xuống cầu thang, – phải chăng không còn có thể dừng lại sửa chữa lại tất cả… và đừng đi nữa?”
Nhưng chàng vẫn cứ đi. Chàng bỗng cảm thấy một cách dứt khoát rằng không việc gì phải đặt ra cho mình những câu hỏi nữa. Bước ra phố, chàng sực nhớ là chưa từ biệt Sonya, là nàng đã đứng lại ở giữa phòng, choàng chiếc khãn dài xanh, nghe chàng quát không dám nhúc nhích; chàng dừng lại một thoáng. Ngay lúc ấy chợt có một ý nghĩ soi vào tâm trí chàng sáng rực, như thế vẫn đợi đến lúc nầy để đánh chàng quỵ hẳn.
“Tại sao vừa rồi ta lại đến nàng, đến để làm gì? Tuyệt nhiên không có việc gì hết! Để cho biết là ta đã chịu đi chăng?
Có cần thiết gì đâu! Hay là ta yêu nàng? Làm gì có, yêu đương gì? Vừa rồi ta xua đuổi nàng như đuổi một con chó đây thôi. Hay là ta cần đến chiếc thánh giá của nàng thật? Ôi, ta suy đốn nhiều quá! Không, chính là ta cần đến nước mắt của nàng, ta cần trông thấy vẻ hoảng hốt của nàng, xem tâm hồn nàng, quằn quại đau đớn. Ta phải bấu víu lấy một cái gì trì hoãn lại, nhìn một con người? Thế mà ta còn dám hy vọng vào mình như vậy: mơ ước về bản thân như vậy, ta, một thằng ăn mày, một kẻ ti tiện, một thằng tồi, một thằng hèn”.
Chàng đi đọc bờ kênh. Từ đây đến đây không còn xa nữa. Nhưng đến đâu cầu, chàng dừng lại một lát và bỗng rẽ lên cầu, đi về phía chợ hàng Rơm.
Chàng háo hức nhìn hai bên, chăm chú nhìn kỹ từng vật một mà không sao tập trung được sức chú ý vào một vật gì, tất cả đều lướt qua rất nhanh. “Đấy, chỉ một tuần nữa, một tháng nữa họ sẽ đưa ta lên những cỗ xe tù chở qua cầu nầy đi đâu không rõ, lúc ấy ta sẽ nhìn xuống dòng kênh nầy ra sao, có lẽ ta sẽ nhớ lại chăng? – Chàng thoáng nghĩ. – Đây, cái bến nầy, đến lúc ấy ta cũng sẽ đọc chính những chẽ kia chăng? Trên biển đề Tavarissextvo, ấy phải nhớ lấy cái chữ a kia, và một tháng sau sẽ nhìn đúng vào chữ a ấy: thế đến lúc ấy ta sẽ nhìn như thế nào? Lúc ấy ta sẽ nghĩ gì sẽ cảm xúc ra sao? Trời ơi, tất cả những thứ đó, những mối… lo âu của ta hiện nay chắc phải ti tiện lắm! Tất nhiên những chuyện đó chắc cũng phải có một cái thú… riêng… (ha – ha – ha! ta nghĩ những chuyện gì thế nầy!) ta đang trở thành một thằng con nít, ta đang tự huênh hoang với mình; ta có gì mà phải tự xấu hổ với mình nhỉ? Chà, chen lấn ghê thật! Kìa, chắc cái lão người Đức béo phục phịch kia vừa xô mình: hắn có biết hắn vừa xô ai không nhỉ? Mụ đàn bà nhà quê kia bế con đi ăn mày, kể cũng lạ thật: mụ ấy tưởng ta sung sướng hơn mụ ấy. À, ta cho mụ vài xu cũng hay. Ở trong túi còn đồng xu năm, ở đâu ra thế không biết? “Đây nầy, đây nầy cầm lấy, bà mẹ!”
– Lạy chúa phù hộ cậu! – Người ăn mày nói, giọng nghe như khóc.
Chàng bước thới khu chợ Hàng Rơm. chàng thật khó chịu, rất khó chịu khi phải len vào giữa đám đông, thế nhưng chàng vẫn nhằm đúng vào chỗ có đông người nhất mà tiến. Chàng sẵn sàng hiến dâng tất cả mọi sự trên đời để được đứng lại một mình; nhưng chàng cùng cảm thấy mình không một phút nào có thể đứng lại một mình cả. Trong đám đông có một gã say rượu đang dớ trò: hắn cứ muốn nháy múa, nhưng lại cứ ngã chúi sang một bên. Một tốp người xúm lại quanh hắn.
Raxkonikov len qua đám đông, đứng nhìn gã say rượu mấy phút rồi bỗng cười phá lên từng đợt ngắn và đứt quãng.
Chỉ một phút sau chàng đã quên bẵng gãà say rượu, thậm chí không trông thấy hắn nữa; tuy vẫn nhìn vào hắn.
Cuối cùng chàng bỏ đi, cũng không nhớ là mình đang ở đâu nữa; nhưng đi đến giữa khu chợ, trong người chàng bỗng xao động lên, một cảm giác rất mạnh lập tức tràn vào người chàng, khống chế chàng cả thể xác lẫn tinh thần.
Chàng chợt nhớ đến những lời của Sonya: “Anh hãy ra ngã tư đường, cúi mình trước dân chúng, quỳ xuống hôn mặt đất, vì anh đã có tội với trời đất, và hãy nói to lên với mọi người: “Tôi là kẻ sát nhân!”. Chàng run bắn cả người lên khi nghĩ đến đấy. Nỗi lo âu và sầu muộn không có lối thoát của chàng trong suốt thời gian gần đây nhưng nhất là trong mấy tiếng đồng hồ gần đây đã làm cho chàng ngột ngạt đến nỗi chàng háo hức vồ lấy cái khả năng có được một cảm giác thuần tuý mới mẻ, trọn vẹn nầy. Cảm giác đó bỗng đến với chàng như một cơn bệnh: nó cháy bùng lên trong lòng chàng như một tia lửa rồi bỗ g bao trùm lấy chàng như một đám cháy. Trong khoảnh khắc chàng thấy cả tâm hồn dịu hẳn lại. Chàng ứa nước mắt. Chàng đang đứng thế nào thì cứ thế mà gục xuống đất…
Chàng quỳ ở giữa khu chợ, cúi mình xuống sát đất và hôn mặt đất bẩn thỉu ấy một cách khoái lạc, lòng tràn đầy hạnh phúc. Chàng đứng dậy, rồi cúi xuống một lần nữa.
– Chà thằng cha say khướt rồi – một gã trẻ tuổi đứng bên cạnh nói.
Có tiếng cười phá lên.
– Ấy là người ta sắp đi Jerusalem đấy, anh em ạ, người ta đang từ biệt con cái, từ biệt tổ quốc, từ biệt mọi người đây, người ta hôn mảnh đất của đô thành Saint- Petersburg, – một người tiểu thương hơi ngà ngà say đứng trong đám đông nói thêm.
– Anh chàng hãy còn trẻ – một người thứ ba đệm vào.
– Con nhà quý phái! – Có ai nhận xét, giọng đạo mạo.
– Thời buổi bây giờ thì cũng chẳng biết thế nào là quý phái, thế nào là không.
Tất cả những lời bàn tán ấy giữ Raxkonikov lại, và mấy chữ: “Tôi đã giết người”, có lẽ đang chực thốt ra, đã ngưng dọng lại trong miệng chàng. Tuy vậy, chàng cũng điềm tĩnh chịu đựng những tiếng quát tháo, và, không nhìn sang hai bên, chàng bước thắng qua ngõ hẻm đi về phía sở cảnh sát. Dọc đường có một hình ảnh thoáng qua mắt chàng, nhưng chàng không lấy làm lạ, chàng đã tiên cảm rằng tất phải thế. Hồi nãy trên khu Chợ hàng Rơm, khi quay sang trái cúi mình sát đất lần thứ hai, chàng chợt trông thấy Sonya. Nàng đứng nấp sau một cái nhà lớn bằng gỗ cho chàng khỏi trông thấy: thế nghĩa là nàng đã đi theo chàng trong suốt đoạn đường khổ nhục ấy! Giây phút ấy chàng đã cảm thấy và hiểu thấm thía rằng từ nay Sonya sẽ vĩnh viễn ở bên cạnh chàng và sẽ theo chàng dù có phải đi đến nơi cùng trời cuối đất, dù số phận có xua chàng đi đâu chăng nữa. Lòng chàng như đảo ngược hẳn lại, nhưng… đây chàng đã đi đến nơi oan nghiệt… chàng vào sân một cách khá mạnh dạn. Phải lên đến tầng thứ ba.
“Bây giờ ta vẫn chỉ mới lên thang gác mà thôi” – Chàng thầm nghĩ. Nói chung chàng cứ có cảm giác là từ đây đến cái phút oan nghiệt ấy hãy còn xa, hãy còn nhiều thì giờ lắm, còn có thể nghĩ lại rất nhiều điều.
Lại những mở rác rưới, những đống vỏ khoai trên cái cầu thang xoáy trôn ốc, lại những cảnh cửa phòng mở toang, lại những gian nhà bếp toả ra những luồng khói và những mùi hôi hám. Từ dạo nọ, Raxkonikov chưa lần nào trở lại đây. Chân chàng cứ tê dại, khuỵu xuống, nhưng vẫn bước đị. Chàng dừng lại một lát để thở lại cho đều, để trấn tĩnh lại, để khi vào cho ra vẻ một con người. “Nhưng để làm gì? Tại sao? – Chàng chợt hiểu rõ ý nghĩa của hành động vừa rồi. – Nếu đã cần uống cạn chén thuốc đắng ấy, thì còn thiếu gì nữa? Càng đắng càng hay. – Trong giây lát đó hình ảnh Ilya Petrovich “Thuốc Súng” vụt thoáng qua trí tưởng tượng của chàng – Có thật ta đến gặp hắn không?
Không thể gặp ai khác sao? Không thể gặp Nikodim Phomits được sao? Hay là trở lại đến nhà riêng viên quận trưởng, ít nhất cũng có không khí gia đình? Không! Hãy lên gặp Thuốc Súng, phải đến gặp gặp Thuốc Súng. Đã uống thì phải uống cạn một hơi!”.
Người lạnh toát, hầu như mê man: chàng mở cánh cửa vào sở cảnh sát. Lần nầy trong sở rất ít người i, chỉ thấy một người gác cổng với một người thường dân nào đứng đấy. Người canh cửa ngồi sau tấm vách cũng không buồn nhìn ra nữa. Raxkonikov bước sang phòng bên. “Có lẽ bây giờ không nói ra cùng còn kịp” – chàng thoáng nghĩ.
Trong phòng nầy có một viên thư lại mặc thường phục đang sắp sửa viết cái gì trên bàn giấy. Trong góc có một viên thư lại khác đang soạn chỗ ngồi. Không thấy Zamiotov đâu. Nikodim Phomits dĩ nhiên cũng không có ở đây.
– Không có ai cả à? – Raxkonikov hỏi viên thư lại ngồi ở bàn giấy.
– Thế ông cần hỏi ai?
– À – à – à? Tiếng thì chẳng nghe, người thì chẳng thấy nhưng cái tinh thần Nga – la – tư… trong câu chuyện cổ tích ấy nói thế nào nhỉ, tôi quên mất! X – Xin k – kính ch – Chào – ào ngà – ài – một giọng nói quen thuộc bỗng reo to lên.
Raxkonikov run lên. Trước mắt chàng là viên trung uý Thuốc Súng; hắn vừa ở phòng thứ ba đột ngột bước ra. “Đây chính là số mệnh, – Raxkonikov nghĩ thầm – Tại sao hắn lại ở đây?”.
– Ông đến tìm chúng tôi à? Có việc gì thế – Ilya Petrovich kêu lên. (Hình như hắn đang vui và thậm chí có phần cao hứng nữa). – Nếu ông đến giải quyết công việc thì hơi sớm quá. Tôi đến đây cũng chỉ tình cờ… Nhưng nếu tôi có thể giúp được gì? Tôi xin thú thực với ông… Ông gì nhỉ? Xin lỗi…
– Raxkonikov.
– Thì đã đành là Raxkonikov!(2) Chả nhẽ ông lại có thể tưởng là tôi quên! Xin ông đừng cho tôi là người như thế, ông… Rodion Romanovich Ro… Ro… Rodonovich thì phải.
– Rodion Romanovich.
– Phải, phải – phải! Rodion Romanovich, Rodion Romanovich? Tôi muốn nhớ nhớ lại là lại cái tên ấy kia. Tôi đã có nhiều lần hỏi thăm ông. Tôi xin thú thật rằng từ dạo ấy tôi thành thật lấy làm phiền lòng rằng hôm ấy chúng ta đã, về sau người ta nói rõ tôi mới được biết rằng ông là một nhà văn trẻ, hơn nữa lại là một nhà bác học… và, có thể nói là đang trên những bước đầu. Ồ lạy Chúa! Các nhà văn, nhà bác học thì vị nào mà lúc đầu chẳng bước những bước độc đáo! Tôi và nhà tôi đều coi trọng văn học, riêng nhà tôi thì lại yêu say mê! Văn học và nghệ thuật! Trừ dòng dõi ra không kể, còn thì mọi thứ đều có thể đạt được bằng tài năng, tri thức, trí tuệ, thiên tài! Như cái mũ chẳng hạn, mũ là cái gì? Mũ là một cái bánh rán, tôi mua nó ở hiệu Zimmermann; nhưng cái được che đậy và bảo toàn bên dưới cái ũu thì không thể nào mua được! Xin thú thật là tôi cũng đã muốn đến phân trần với ông, nhưng lại nghĩ bụng, có lẽ ông… Nhưng thôi, xin hỏi ông lên đây có việc gì cần không? Nghe nói ông có người nhà mới lên thăm, phải không?
– Phải, mẹ và em tôi.
– Tôi đã có cái hân hạnh và may mắn được gặp em gái ông, thật là một thiếu nữ có học thức đẹp tuyệt trần. Xin thú thật là tôi rất làm tiếc rằng dạo ấy chúng ta đã nổi nóng lê như vậy! Còn như nhân khi ông bị ngất tôi có nảy ra ý ghi ngờ, thì về sau những việc ấy đã được giải thích một cách hết sức thần tình! Thật là dị đoan, cuồng tín! Tôi hiểu nỗi căm phẫn của ông lắm. Có lẽ, nhân việc gia đình ông mới lên, ông định dọn nhà mới chăng?
– Không, tôi chỉ… Tôi định ghé vào hỏi… tôi tưởng sẽ gặp ông Zamiotov ở đây.
– À phải! Chà là hai ông đã kết bạn mà, tôi có nghe nói. Ấy, Zamiotov hiện không có ở đây, không đến nữa. Phải, chúng tôi đã đành tâm chịu thiếu Alekxandr Grigorievich! Từ hôm qua ông ta không còn đến đây nữa; ông ta đã đổi đi nơi khác… và khi thuyên chuyển, ông ta còn to tiếng với mọi người… to tiếng một cách vô lễ nữa là khác… Một đứa trẻ nông nổi: không hơn không kém; ông ta cũng có vẻ có triển vọng, nhưng cứ thử tin vào cái lớp thanh niên “ưu tú” của chúng ta mà xem! Ông ta muốn dự một kỳ thi gì đấy thì phải, nhưng với chúng tôi thì chỉ cần nói chuyện gẫu và huênh hoang đôi chút, thế là đã thi xong rồi đấy. Vì đây không phải như trường hợp ông hay ông Razumikhin bạn ông chẳng hạn! Sự nghiệp của các ông thuộc lĩnh vực khoa học, và thất bại không thể làm các ông nản chí được. Đối với ông tất cả những cái hào nhoáng của cuộc sống có thể nói là chẳng là cái gì hết cả. Ông là một nhà tu; một nhà khổ hạnh, một ẩn sĩ, ông chỉ cấn một quyển sách, một cây bút dắt trên vành tai, những công trình nghiên cứu khoa học – linh hôn ông phiêu diêu ở những nơi ấy đấy! Chính tôi đây cũng phần nào… Ông đã đọc bút ký của Livingston (3) chưa nhỉ?
– Chưa.
– Còn tôi thì đọc rồi. Vả chăng bây giờ lắm người theo chủ nghĩa hư vô lắm: cũng dễ hiểu thôi; thời đại ta là thời dại gì, xin hỏi ông. Nhưng dù sao, tôi cũng nói với ông… chắc hẳn ông không phải là một người hư vô chù nghĩa? Ông trả lời thành thật đi!
– Không…
– Không, ông ạ. Ông cứ nói thật với tôi đi, đừng ngại gì cả, như nói với chính mình ấy. Công vụ là một đằng, mà…
Ông tưởng tôi muốn nói: mà tình bạn là một đằng khác (4) chứ gì? Không, ông đoán sai rồi! Không phải là tình bạn, mà là tình của một công dân và một con người, tình yêu nhân loại và tình yêu đối với Đấng Tối cao. Tôi cũng biết làm một nhà chức trách, một người làm công vụ, nhưng bao giờ tôi cũng có bổn phận cảm thấy mình là một công dân và là một con người, và chịu trách nhiệm về việc đó. Vừa rồi ông nhã ý nói đến Zamiotov, Zamiotov thì sẽ lam một chuyện gì bậy bạ theo kiểu Pháp trong một nhà chứa, bên côc sâm banh hay cốc rượu sông Đông, đấy Zamiotov của ông là thế đấy! Còn tôi thì có thể nói là đã mòn mỏi đi vì lòng tận tuỵ và vì những cảm xúc cao cả, hơn nữa tôi lại có một chức vụ, một địa vị! Tôi có gia đình, có con cái. Tôi làm tròn nhiệm vụ của một công dân và một con người, còn Zamiotov là ai, tôi xin hỏi ông như vậy? Tôi đối xử với ông như với một người đã được học vấn nâng cao phẩm giá lên. Đấy, ngoài ra bây giờ lại sinh ra vô khối những hạng “cô đỡ” ấy (5).
Raxkonikov bỡ ngỡ giương cao lông mày lên. Lời lẽ của Ilya Petrovich, hẳn là vừa ở bàn ăn đứng dậy, tuôn ra từng tràng trước mặt chàng, phần lớn nghe như những âm thanh vô nghĩa. Nhưng dù sao chàng cùng hiểu được ít nhiều; chàng băn khoăn nhìn hắn và không biết sự việc sẽ kết thúc ra sao.
– Là tôi muốn nói đến những cô gái cắt tóc ngắn ấy – Ilya Petrovich vẫn nói huyên thuyên, – Chính tôi đây đã đặt cho họ cái biết hiệu “cô đỡ” và thấy đó là một biết hiệu hoàn toàn thích đáng. Hê – hê! Họ chui vào học viện, học giải phẫu; nhưng ông bảo nếu tôi lăn ra ốm, liệu tôi có mời một cô con gái đến chữa cho tôi không? Hê – hê!
Ilya Petrovich cười lớn, rất hài lòng với những câu dí dỏm của mình.
– Cứ cho đó là do lòng khát khao học vấn, một lòng khát khao vô độ; nhưng có học vấn rồi thì thôi. Lạm dụng làm gì? Tại sao lại đi xúc phạm đến những con người cao quý, như cái thằng Zamiotov vô lại kia đã làm? Xin hỏi tại sao hắn lại xúc phạm đến tôi? Lại còn những vụ tự tử kia nữa, cùng nhiều vô khốit, ông không thể tưởng tượng được đâu. Bọn họ vung hết nhưng đồng tiền cuối cùng rồi tự sát. Con gái có, con trai có, ông già cũng có… Đấy, vừa sáng nay có tin một ông mới lên đây được ít lâu, nầy, ông Nil Pavlyst, ông Nil Pavlyst… Cái ông mà vừa rồi họ bảo là đã bắn vào đầu tự sát ở quận Petersburgxkaya tên là gì thế nhỉ?
– Xvidrigailov, – một giọng khàn khàn và dửng dưng đâu từ phòng bên đáp.
Raxkonikov giật mình.
– Xvidrigailov! Xvidrigailov tự sát? – Chàng kêu lên.
– Sao! Ông biết Xvidrigailov à?
– Vâng… tôi có biết… Ông ta mới lên đây được ít lâu.
– Phải rồi, mới lên đây, vợ mới chết, ông ta là người chơi bời phóng đàng, bỗng dưng lại tự sát, mà tự sát một cách ngang chướng không thể tưởng tượng được có để lại mấy chữ trong sổ tay, nói là chết trong lúc tỉnh trí và yêu cầu đừng buộc tội cho ai cả. Nghe nói ông ta có lắm tiền. Sao ông lại biết ông ta?
– Tôi… có quen… em tôi trước có làm gia sư trong nhà ông ta.
– À à ra thế… Thế thì ông có thể cho chúng tôi biết một số tài liệu về ông ta. Thế ông cũng không ngờ à?
– Hôm qua tôi có gặp ông ta. Ông ta uống rượu, tôi không biết gì hết.
Raxkonikov cảm thấy như có một cái đổ lên người chàng và đè chàng xuống.
– Hình như ông lại tái mặt đi rồi. Ở đây bí lắm…
– Vâng, tôi phải đi đây, – Raxkonikov lẩm bẩm. Xin lỗi, tôi đến làm phiền.
– Ồ không sao ạ. Ông ngồi chơi bao nhiêu lâu cũng được ấy chứ! Được nói chuyện với ông thật là thú vị. Và tôi lấy làm mừng được tuyên hố rằng… Ilya Petrovich lại còn chìa tay ra bắt nữa.
– Tôi chỉ muốn… tôi đến gặp Zamiotov…
– Tôi hiểu, tôi hiểu, như vậy cùng rất hay – Tôi rất hân hạnh… xin chào ông…
Raxkonikov mỉm cười.
Chàng lảo đảo bước ra. Đầu chàng choáng váng. Chàng không cảm thấy chân mình chấm đất. Chàng bắt đầu xuống thang gác, tay phải vịn vào tường. Chàng mường tượng như có một người gác cổng cầm quyển số đi lên sở xô phải chàng; hình như có một con chó sủa vang lên đâu ở tầng dưới, và có một người đàn bà nào vừa quát tháo vừa ném một hòn sói vào con chó.
Chàng xuống hết thang gác và bước ra sân. Ngoài sân, cách cửa ra vào không xa, Sonya đang đứng lặng người ra nhìn chàng với đôi mắt thẫn thờ, man dại, mặt tái mét. Chàng dừng lại trước mắt nàng, trên gương mặt nàng có một cái gì đau đớn, ốm yếu, tuyệt vọng. Nàng chắp hai tay lên ngực. Một nụ cười ngây dại, quái gở hiện lên m trên môi Raxkonikov. Chàng đứng yên một lát, cười nhạt rồi quay trở lại lên sở cảnh sát.
Ilya Petrovich đã ngồi vào bàn và đang cậm cụi trên một đống giấy má gì không rõ. Ttrước mặt hắn là người mu-gích đã xô phải chàng trong khi leo lên thang gác.
– À à – à! Ông trở lại đây ư! Ông quên cái gì thế? Nhưng ông làm sao thế?
Raxkonikov môi trắng bệch, mắt đờ đẫn, từ từ bước lại gần hắn, tiến sát cạnh bàn, chống tay lên định nói một câu gì, nhưng không nói được, chỉ phát ra những tiếng ú ở rời rạc.
– Ông khó ở! Lấy ghế đây! Đấy. Ông ngồi xuống đây ông ngồi xuống! Lấy nước!
Raxkonikov buông người rơi phịch xuống ghế, nhưng mắt vẫn không rời Ilya Petrovich bấy giờ đang ngạc nhiên một cách rất khó chịu.
– Chính tôi… – Raxkonikov mở đầu.
– Ông uống nước đi.
Raxkonikov lấy tay gạt cốc nước ra và nói khẽ, giọng ngập ngừng nhưng rành mạch:
– Chính tôi đã giết mụ chủ hiệu cầm đồ và em gái bà ta là Lizaveta để lấy của.
Ilya Petrovich há hốc mồm ra. Những người ở xung quanh đổ xô tới.
Raxkonikov nhắc lại lời cung khai.
Chú thích
(1) Trong nhiều ngôn ngữ châu Âu, thành ngữ “vác cây thập tự” có nghĩa là nhận lấy đau khổ
(2) Ilya Petrovich muốn nói rằng anh ta có quên là quên mất tên và phụ danh, chứ họ (Raxkonikov) thì vẫn nhớ: ý muốn tỏ ra kính nể Raxkonikov (gọi tên và phụ danh là cách gọi dành cho những người được mình mến trọng)
(3) Nhà thám hiểm nổi tiếng người Anh (1813 – 1873)
(4) Tục ngữ Nga
(5) Ý muốn ám chỉ các nữ sinh viên, mới bắt đầu có ở Nga