Trăm năm cô đơn (tiếng Tây Ban Nha: Cien años de soledad) là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng nhất của nhà văn người Colombia Gabriel García Márquez. Tác phẩm được nhà xuất bản Sudamericana xuất bản lần đầu bằng tiếng Tây Ban Nha vào năm 1967 tại Buenos Aires (Argentina).
Đến năm 1970, truyện đã được in bằng tiếng Tây Ban Nha hơn nửa triệu bản, chưa kể hai lần in ở Cuba là một trăm nghìn bản. Khi đó còn có 17 hợp đồng xin phép tác giả được dịch tác phẩm này ra các thứ tiếng khác. Cho đến nay, tác phẩm đã chuyển dịch qua hơn 30 ngôn ngữ trên thế giới trong đó có Việt Nam, được tặng giải Chianchiano của Ý, được Pháp công nhận là cuốn sách hay nhất trong năm và được giới phê bình văn học Mỹ đánh giá là một trong 12 cuốn sách hay nhất trong thập niên 1960.
Đây được coi là một kiệt tác của Gabriel García Márquez, Trăm năm cô đơn đã mang đến cho tác giả vinh dự đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1982.
Bản dịch tiếng Việt là của dịch giả Nguyễn Trung Đức, Phạm Đình Lợi và Nguyễn Quốc Dũng. Nguyễn Trung Đức viết lời giới thiệu.
—
Trong Trăm năm cô đơn có khoảng 60 nhân vật, cả chính lẫn phụ. Các nhân vật đều có cá tính riêng. Bằng thủ pháp nghệ thuật riêng, Gabriel García Márquez xây dựng nên những nhân vật siêu mẫu, những người dị thường, phi thường và quái dị. Ở từng nhân vật cụ thể, tác giả thường chỉ tập trung miêu tả nhấn mạnh những biểu hiện của cá tính với những đặc điểm nổi bật: Pilar Ternera với mùi khen khét phả ra từ nách và tiếng cười khanh khách; Rebecca ăn đất yêu đương mãnh liệt; Remedios – Người đẹp ngây thơ với sắc đẹp làm chết người; Aureliano Segundo kẻ phàm tục với câu nói: “Hỡi những con bò cái hãy dạng háng ra kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm”; Mauricio Babilonia thợ cơ khí của công ty Chuối luôn xuất hiện của đàn bướm vàng bay trên đầu…
Trăm năm cô đơn là câu chuyện về dòng họ Buênđya tồn tại bảy thế hệ, người đầu tiên bị trói vào gốc cây và người cuối cùng bị kiến ăn, một dòng họ tự lưu đày vào cõi cô đơn để trốn tội loạn luân. Trong cõi cô đơn ấy, những Accađiô, Aurêlianô, Rêmêđiôt và những Amaranta đã ra đời, sống với số phận bi đát như đã được định trước: lay lắt trong nỗi cô đơn và hoài nhớ, thấp thỏm lo phạm tội loạn luân. Nhưng rồi họ yêu nhau mãnh liệt và lấy nhau với hy vọng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng họ vẫn đẻ ra những đứa con có đuôi lợn và chính nó đã kết liễu dòng họ Buênđya.
Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người – tổng hòa các mối quan hệ xã hội – của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Gabriel García Márquez từng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này.
Bối cảnh lịch sử đầy rối ren tại Mỹ Latinh lúc bấy giờ cùng thời thơ ấu vừa êm dịu vừa mang nhiều uẩn khúc của Gabriel García Márquez đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong Trăm năm cô đơn.