Hiện tại trời chưa sáng, quần thần đứng theo thứ tự ở bên ngoài đại điện. Một thần tử bất an giật giật tay áo Lý Ngọc Xương rồi lí nhí hỏi, “Lý đại nhân không sợ à?”
“Sợ gì?”
“Tối qua có binh biến,” người nọ bảo, “ngộ nhỡ bệ hạ lại bị thay đổi…”
“Thì sao chứ?”
Ánh mắt Lý Ngọc Xương hướng đến mây đen trên trời, hắn thản nhiên đáp, “Có thay đổi bệ hạ thì ta vẫn là thượng thư của bá tánh.”
Bầu trời Đông Đô dần sáng, cùng lúc ấy, mưu to tầm tã tại khúc sông Hoàng Hà ở Vĩnh Châu. Sức nước của Hoàng Hà rốt cuộc vẫn khiến đê đập bị vỡ nhưng bao cát mà Liễu Ngọc Như đắp phía sau lại ngăn cản dòng chảy. Bọn họ nắm tay nhau đứng giữa dòng nước hung hãn và chắn phía trước những người đang trông chờ họ câu giờ để gấp rút sửa chữa đê đập.
Liễu Ngọc Như đã kiệt sức. Nàng, Ấn Hồng, Phó Bảo Nguyên và Lý tiên sinh tay trong tay, mặc cho nước lũ đánh lên thân thể.
Mặt nàng trắng bệnh, toàn thân run rẩy, chỉ trông cậy vào ý chí để nắm chặt tay người bên cạnh.
“Lý…Lý tiên sinh!” Ấn Hồng run run mở miệng, “Còn bao lâu nữa?”
“Đợi mưa tạnh…”
Lý tiên sinh cũng chịu hết nổi nhưng ông vẫn gân cổ hô hào, “Mưa sẽ tạnh khi mặt trời mọc!”
Mặt trời chưa mọc thì ở đại điện Đông Đô, tiếng xướng lảnh lót của thái giám vang lên. Cửa đại điện mở ra, quan viên nối đuôi nhau bước vào. Khi đã ở trong điện, bọn thấy Cố Cửu Tư đứng trên cao; một tay nâng thánh chỉ, một tay cầm Thiên Tử Kiếm.
Cố Cửu Tư đứng trên đài cao tuyên đọc thánh chỉ của Phạm Ngọc. Lúc đọc xong, hắn nói, “Mời các vị cùng ta đến cổng thành nghênh đón bệ hạ.”
Quần thần nhìn nhau, Cố Cửu Tư tiếp tục, “Trên đường hành quân, bệ hạ đã hạ lệnh cho phép cướp bóc Đông Đô ba ngày sau khi đánh hạ nơi đây. Chúng ta đi nghênh đón nhằm mục đích khuyên giải bệ hạ vào thành trong hòa bình, tránh cho hỗn loạn xảy ra.”
Mọi người vẫn im thin thít, Lý Ngọc Xương lạnh lùng cất tiếng, “Bây giờ không đi là muốn chờ lát nữa bị thanh toán hả?”
Câu cảnh báo trên khiến mọi người hoàn hồn, Tần Nam tiếp lời, “Đông Đô đang trên bờ vực hiểm họa, các vị làm quan viên mà không cứu Đông Đô thì ai cứu?”
Xung quanh im lìm, Tần Nam bước lên trước và nói với Cố Cửu Tư, “Cố đại nhân hãy dẫn đầu.”
Cố Cửu Tư bước từ trên đài cao xuống, Lý Ngọc Xương và Tần Nam theo sát phía sau hắn. Sau đấy môn sinh của Cố Cửu Tư cũng cất bước đi cùng. Thấy số người mỗi lúc một tăng, những quan viên đang lưỡng lự liền cắn răng theo Cố Cửu Tư đến cổng cung điện và ra ngoài thành nghênh đón Chu Cao Lãng.
Lúc ra khỏi thành, bọn họ đụng phải bá tánh đang được sơ tán. Chu Cao Lãng tiến về Tây Môn nên cánh cổng này đã bị khóa, bá tánh chỉ có thể dùng ba cổng còn lại để rời khỏi đây.
Đội ngũ quan viên đông đảo với đủ loại phẩm cấp thu hút mọi ánh mắt. Nhận ra bá tánh đang dõi theo mình, các quan viên vô thức ưỡn ngực thẳng lưng mà đi theo Cố Cửu Tư.
Mặt trời đã ló dạng được phân nửa ở đằng đông khi bọn họ tới cổng thành, kế tiếp mọi người thấy cờ hiệu thêu chữ “Chu” tung bay trong gió và đại quân đang phi nước đại về phía Đông Đô.
Chu Cao Lãng tới sớm hơn dự tính của Cố Cửu Tư, tức nghĩa ông không nghỉ ngơi mà hành quân cả ngày lẫn đêm.
Cố Cửu Tư để mọi người đứng chờ dưới cổng thành còn hắn đơn độc đi về hướng có đại quân.
Nắng sớm chiếu trên cát tỏa ra ánh vàng kim lấp lánh, Cố Cửu Tư trong bộ trang phục đỏ và tay cầm kiếm tiến lên đối mặt với biển binh lính.
Không ngừng lại, không do dự, dù chỉ có một thân một mình trước ngàn vạn người.
Hắn dừng bước tại vị trí cách thành trì hơn trăm trượng. Chu Cao Lãng cưỡi ngựa ở đằng trước, Diệp Thế An và Chu Diệp cưỡi ngựa song song phía sau ông. Bọn họ đã thấy Cố Cửu Tư từ xa; thấy gió thổi tay áo lẫn dây cột tóc của hắn, tạo nên hình ảnh bắt mắt giữa bốn bề là cát vàng.
Bọn họ không giảm tốc độ, Cố Cửu Tư cũng chẳng nhúc nhích. Đến tận giây phút Chu Cao Lãng tới gần thì Cố Cửu Tư mới đột ngột quỳ một bên gối và hô vang, “Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!”
Câu nói ấy khiến Chu Cao Lãng siết chặt dây cương, miễn cưỡng dừng trước mặt Cố Cửu Tư.
Thấy Chu Cao Lãng dừng lại, toàn bộ đội quân vội vàng làm theo. Cố Cửu Tư quỳ trước Chu Cao Lãng với vẻ mặt thong dong.
“Cố Cửu Tư,” Chu Cao Lãng nhíu mày, “ngươi lại muốn làm gì nữa?”
“Bệ hạ,” Cố Cửu Tư dâng thánh chỉ bằng cả hai tay, kính cẩn nói, “đêm qua vị hoàng đế thiếu niên đã hạ chỉ nhường ngôi cho bệ hạ. Vì vậy thần dẫn bá quan văn võ tới cổng thành Đông Đô để nghênh đón bệ hạ vào thành!”
Thông tin này làm tất cả mọi người ngỡ ngàng. Sau khoảnh khắc kinh ngạc ngắn ngủi, Chu Cao Lãng chăm chú nhìn Cố Cửu Tư, “Tư Mã Tướng quân, Vi Tướng quân, lẫn Dương Tướng quân sẽ nói gì nếu ta vào Đông Đô?”
“Thế xin hỏi bệ hạ sẽ vào Đông Đô bằng cách nào?” Cố Cửu Tư ngước nhìn Chu Cao Lãng.
Chu Cao Lãng nhướn mày, “Ta làm cách nào thì liên quan gì đến bọn họ?”
“Nếu bây giờ bệ hạ xuống ngựa và gỡ giáp buông kiếm, Đông Đô từ trên xuống dưới – bất kể là dân chúng hay quần thần – đều sẽ dùng lễ nghi dành cho nhà vua để nghênh đón bệ hạ vào thành.”
“Còn nếu ta từ chối?”
“Nếu bệ hạ từ chối ư?” Cố Cửu Tư cắm thanh kiếm vào cát vàng bên cạnh mình, kiên định tuyên bố, “Cao Tổ từng ban cho thần Thiên Tử Kiếm để trên đánh hôn quân, dưới trảm gian thần. Cao Tổ cũng ban tự Thành Giác với hy vọng thần sẽ là vị quân tử tựa ngọc, là món vũ khí mà đất nước dùng để bảo vệ bá tánh bốn phương. Nay Cố Cửu Tư đứng trước thành Đông Đô, nếu bệ hạ không gỡ giáp thì xin bước qua xác vi thần.”
Chu Cao Lãng ngẩng đầu nhìn thoáng qua phía trên cổng thành Đông Đô; binh lính đã rút vũ khí ra hết, sẵn sàng tiến hành phòng ngự.
Dưới cổng thành, quần thần cầm hốt trong tay và lặng lẽ dõi theo hai bên đối thoại.
Chu Cao Lãng trầm mặc thật lâu mới cất tiếng, “Cửu Tư, ta không ngờ ngươi đủ khả năng làm tới mức này. Nhưng ta đã hứa với các tướng sĩ…”
“Bệ hạ hứa với tướng sĩ rằng sẽ khao thưởng tam quân,” Cố Cửu Tư lập tức cắt ngang, “Cố gia ta tình nguyện dùng hết gia tài để bồi thường tướng sĩ.”
Nghe đến đây, mọi người đều sững sờ. Cố Cửu Tư nhìn Chu Cao Lãng bằng cặp mắt trong veo, hắn nói tiếp, “Ta biết bệ hạ lo ngại lòng quân thiếu ổn định. Hiện giờ hoàng đế đã nhường ngôi, ngài danh chính ngôn thuận trở thành chủ nhân của Đại Hạ chứ chẳng dựa vào mưu phản.”
Vấn đề Chu Cao Lãng sầu lo nhất là lòng quân đã được giải quyết triệt để. Sau này vào thành, các tướng sĩ có phát hiện mình bị lừa thì bọn họ vẫn vô tội vì Chu Cao Lãng không hề làm phản. Chu Cao Lãng quang minh chính đại ngồi lên ngôi vị hoàng đế, bọn họ chẳng còn nắm giữ nhược điểm của ông cũng như lý do để phản loạn. Nếu Chu Cao Lãng vẫn thấy bất an, ông có thể từ từ tước quyền bọn họ trong tương lai.
“Ba vị tướng quân trong thành đã thỏa thuận với vi thần rằng họ sẽ tiếp nhận bệ hạ làm chủ nhân thiên hạ, sau đấy bệ hạ hợp tác với ba vị tướng quân đánh trả Lưu Hành Tri. Quốc khố thuộc quyền quyết định của bệ hạ, ngài không cần lo vấn đề quân lương.”
Theo kế hoạch ban đầu của Chu Cao Lãng, ông và ba tướng quân sẽ đấu một trận. Ông đã không có hơi sức bảo vệ Đông Đô thì chi bằng cướp bóc nơi đây để lo liệu quân lương rồi rút lui. Ngoài ra phạm vi cuộc chiến kéo dài tới tận Đông Đô cũng sẽ khiến Lưu Hành Tri hao hụt sức mạnh. Hiện giờ ba tướng quân không quyết chiến với Chu Cao Lãng, ông cũng danh chính ngôn thuận trở thành hoàng đế nên tất nhiên chả cần cướp bóc để kiếm quân lương. Ngoại trừ gán cho ông tiếng xấu thì cướp bóc Đông Đô không mang về ích lợi gì.
“Cuối cùng, Cố gia ta sẽ chi trả cho lời hứa khao thưởng từ bệ hạ. Phu nhân Liễu thị của ta là phú thương lẫy lừng thiên hạ, Cố gia tình nguyện bỏ ra toàn bộ gia tài để thưởng tướng sĩ. Chúng ta chỉ cầu các vị tướng sĩ gỡ giáp vào Đông Đô!”
Chu Cao Lãng lặng im quan sát Cố Cửu Tư chứ không đáp lời, hắn thẳng thắn đáp lại ánh mắt của ông, “Bệ hạ, ta đã giúp ngài giải quyết mọi nỗi băn khoăn.”
“Ngay lúc này, phu nhân ta đang tu sửa Hoàng Hà. Nghe bảo hôm nay mưa to nên ta đoán nước lũ đã dâng cao tận trời.”
Trong lúc Cố Cửu Tư nói, hình ảnh của Liễu Ngọc Như hiện lên nơi tâm trí hắn.
Liễu Ngọc Như đang kề vai sát cánh với mọi người giữa dòng chảy của Hoàng Hà, nàng đã sớm mất cảm giác nhưng nội tâm không ngừng lẩm bẩm tên Cố Cửu Tư.
Đấy là tín ngưỡng lẫn quyết tâm của nàng.
“Tại biên giới Dự Châu, huynh đệ Thẩm Minh của ta và Diệp Vận ở trên cổng thành chỉ huy tám vạn binh lính đối đầu với đại quân ba mươi vạn người.”
Biên giới Dự Châu, quân địch lúc nhúc trèo lên thang mây với tấm thân đẫm máu. Trống trận đánh vang trời, tiếng chém giết xé tầng mây. Thẩm Minh đẩy ra một binh sĩ, hắn hét lớn, “Không cho bọn chúng leo lên! Giết!”
“Đêm qua, cữu cữu Giang Hà của ta và Lạc Tử Thương đồng quy vu tận trong cung điện.”
Giọng Cố Cửu Tư run run khi nói những lời này.
“Chúng ta kiên trì giữ gìn những gì tiên đế quyết tâm xây dựng. Chúng ta cũng thực hiện lời hứa thuở thiếu thời. Bệ hạ từng là một nhi lang tốt đẹp của Đại Hạ, mong ngài,” Cố Cửu Tư nức nở dập đầu, “đừng phụ bạc nhiệt huyết của chúng ta và quên mất sơ tâm.”
Chu Cao Lãng vẫn giữ im lặng như đang cân nhắc. Chu Diệp siết dây cương mà nhìn Cố Cửu Tư quỳ trên đất, hắn bỗng nhớ tới hoài bão đầy khí phách anh hùng mình từng thốt lên khi đối ẩm cùng Cố Cửu Tư ở Dương Châu năm xưa.
Hắn lại nhớ đến lời trách mắng của Liễu Ngọc Như – Huynh cho rằng tại sao Uyển Chi tẩu tẩu yêu huynh?
Ánh mắt hắn dán lấy Cố Cửu Tư, cơ bắp căng cứng.
Diệp Thế An cũng chăm chú nhìn Cố Cửu Tư.
Quãng thời gian hành quân dài dằng dặc khiến hắn lẫn Chu Diệp tỉnh táo lại, nỗi hận thù bóp nghẹt bọn họ dần tan biến. Đôi mắt hắn nhìn Cố Cửu Tư nhưng trong tâm trí là học đường thời niên thiếu, là tiếng ve rộn ràng của mùa hè Dương Châu.
Cố Cửu Tư giữ vững niềm tin của hắn, Diệp Thế An thì sao?
Diệp Thế An ngửa đầu nhìn về phía Đông Đô – không thành hiền thần nổi danh thì cũng đừng làm loạn tặc khét tiếng.
Dưới cổng thành, Lý Ngọc Xương đứng từ xa quan sát. Thấy Cố Cửu Tư cứ quỳ mãi trên đất, hắn bất chợt tiến về phía trước dưới ánh mắt của mọi người. Hắn đến trước mặt Cố Cửu Tư rồi khom lưng đỡ Cố Cửu Tư dậy.
Cố Cửu Tư ngước nhìn hắn, Lý Ngọc Xương phủi hết cát bụi trên quần áo Cố Cửu Tư mới để hắn ngồi xuống. Sau đấy hắn vén vạt áo rồi ngồi lên cát vàng, cất cao giọng, “Hôm nay nếu bệ hạ không gỡ giáp, xin hãy bước qua xác ta để vào Đông Đô.”
Lý Ngọc Xương vừa dứt lời, Tần Nam cũng rời khỏi cổng thành. Ông vén vạt áo rồi ngồi cạnh Lý Ngọc Xương.
Các quan viên lần lượt đi ra từ bên trong cổng thành và ngồi phía sau bọn họ.
Khoảng cách trăm trượng nhanh chóng được lấp đầy bởi quan viên với đủ loại phẩm cấp.
Bọn họ đều là văn thần nhưng dường như chẳng hề sợ hãi khi dùng máu thịt chắn trước cổng thành Đông Đô.
Chu Cao Lãng hiểu một khi ông chỉ huy binh lính giẫm đạp đội ngũ quan viên này, về sau ông khó mà được người đọc sách ủng hộ.
Bọn họ đổ máu cũng sẽ khiến bá tánh trong thành phẫn nộ, chỉ cần ông vào thành thì nơi đó chắc chắn có trận chiến ác liệt chờ đợi ông.
Thật ra Cố Cửu Tư nói đúng, hắn đã giúp ông quét sạch mọi trở ngại nên ông chẳng có lý do để cự tuyệt.
Song quyết định này không thể phát ra từ miệng Chu Cao Lãng; ông mà nói thì sẽ thành lật lọng và khiến trái tim những người đi theo ông lạnh buốt.
Chu Cao Lãng trầm tư suy nghĩ, đây là một quyết định trọng đại nên ông phải thận trọng.
Giữa khung cảnh im lìm chỉ có tiếng gió thổi, Chu Diệp lẳng lặng nhìn các quan viên lẫn phương xa.
Hắn nhìn tường thành cao ngất ngưỡng, nhìn nắng sớm lan tỏa khắp bức tường, nhìn tua kiếm trên Thiên Tử Kiếm của Cố Cửu Tư lay động theo chiều gió.
Chu Diệp nhắm mắt lại và hít sâu một hơi.
Hắn ngửi được mùi cát vàng trong gió, thời gian như quay ngược về ngày Tần Uyển Chi ra đi.
Nàng ấy nói, Hãy sống thật tốt.
Nàng ấy cũng nói, Ta nguyện lang quân mãi mãi như thời niên thiếu.
Chu Diệp chậm rãi mở mắt rồi xoay người xuống ngựa. Trước ánh mắt kinh ngạc từ mọi người, hắn đến ngồi cạnh Cố Cửu Tư.
Ngay sau đấy, Diệp Thế An cũng xuống ngựa và tới ngồi bên còn lại của Cố Cửu Tư.
“Diệp nhi…”
Chu Cao Lãng hết sức kinh hãi, Chu Diệp bình tĩnh cất lời, “Phụ thân, bá tánh vô tội. Chúng ta đã báo thù nên hãy để hận thù trở thành quá khứ. Không cùng đường mà vẫn tiếp tục phạm sai lầm thì khác gì Phạm Ngọc với Lạc Tử Thương?”
“Con hiểu mối bận tâm của người nhưng tấn công Đông Đô chỉ dẫn tới kết cục lưỡng bại câu thương. Nếu có thể vào thành trong hòa bình, chúng ta sẽ dùng quốc khố để thưởng mỗi người năm lượng bạc.”
“Chu quân nên là đội quân nhân nghĩa, người cũng nên là vị chủ nhân sáng suốt. Là nhi tử của người, con mà không thể khuyên can thì phải chuộc tội. Hôm nay nếu người nhất quyết đánh Đông Đô, xin hãy bước qua xác con.”
Lời này khiến Chu Cao Lãng mím môi, ông nhìn về phía Diệp Thế An rồi bật cười, “Ngươi cũng vậy à?”
“Vâng,” Diệp Thế An điềm tĩnh đáp.
“Thế An lầm đường lạc lối nhưng may mắn được bạn tốt thức tỉnh. Chúng ta đọc sách vốn để tạo phúc cho bá tánh. Chúng ta căm ghét Lạc Tử Thương và Phạm Ngọc do bọn chúng làm loạn thiên hạ vì ham muốn cá nhân. Bệ hạ, biết quay đầu sau khi lạc đường cũng là chuộc tội.”
Chu Cao Lãng không nói gì song binh lính của ông lên tiếng trước.
“Thôi bệ hạ ơi,” một người ở phía sau hô, “không cần nhiều đâu, năm lượng đã quá tốt rồi. Ta còn muốn giữ mạng để nuôi lão nương.”
Có người tiên phong nên tiếng tán đồng vang lên mỗi lúc một nhiều.
Chu Cao Lãng lắng nghe âm thanh này. Ông quét mắt qua quần thần do Cố Cửu Tư dẫn đầu đang ngồi xếp bằng dưới đất và tạo thành một hàng dài thẳng đến cổng Đông Đô.
Trải qua bao thay đổi, hiện giờ triều đình sở hữu nhiều khuôn mặt trẻ tuổi. Dưới nắng sớm, bọn họ tỏa sáng lung linh hệt những bức tượng thần và gương mặt bọn họ dừng ở đáy mắt Chu Cao Lãng. Ông ngồi yên trên lưng ngựa, sau một hồi, ông nâng tay tháo mũ sắt xuống.
“Đại quân đóng quân ở ngoại ô, cởi giáp vào thành!” Chu Cao Lãng lớn tiếng ra lệnh, “Binh lính vào thành không chạy tán loạn và quấy nhiễu dân chúng, ai vi phạm sẽ bị trảm ngay lập tức. Mười ngày sau, khao thưởng năm lượng cho mỗi người!”
Tiếng hô của ông vừa dứt, xung quanh đột nhiên tràn ngập âm thanh hoan hỉ từ bá tánh. Cố Cửu Tư tươi cười ngắm nhìn mặt trời mọc ở phương xa.
Cùng lúc ấy, đội ngũ tu sửa Hoàng Hà đã hóa thành dáng vẻ người không ra người, quỷ không ra quỷ.
Sau cơn mưa lớn, vầng dương chiếu rọi những tầng mây và lưu lượng nước rốt cuộc giảm bớt.
Mọi người tự động sửa chữa đê đập, Liễu Ngọc Như nghe Lý tiên sinh bảo, “Ổn rồi.”
Sau đó, nàng cuối cùng chịu hết nổi mà gục ngã.
Lúc ngã xuống, nàng thấy náng sớm chiếu vào những giọt nước trên cây khiến chúng tỏa ra ánh sáng sặc sỡ.
Kết thúc rồi, nàng nghĩ, mọi việc đều đã kết thúc.
******
Năm Khang Bình thứ nhất, ngày ba mươi mốt tháng tám, Chu Cao Lãng vào Đông Đô.
Ông vào Đông Đô trong hòa bình tuyệt đối, chả tốn một binh lính đã đến được cung thành.
Đại chiến không phát sinh như dự đoán nên trừ bỏ đại điện bị cháy, Đông Đô gần như chẳng thiệt hại gì.
Sau khi Chu Cao Lãng vào cung, Chu Diệp đi thu xếp mấy việc cần thiết. Chu Cao Lãng giữ Cố Cửu Tư lại, hai người một đứng một ngồi nhìn nhau hồi lâu thì ông mở lời, “Vị quân vương ngươi muốn không phải kẻ như ta.”
Cố Cửu Tư lặng thinh, Chu Cao Lãng nói tiếp, “Tại sao ngươi lại giúp ta?”
“Bệ hạ,” Cố Cửu Tư cúi đầu, bình thản bảo, “hồi đó Ngọc Như cũng không muốn gả cho kẻ như ta.”
Hắn ngước nhìn Chu Cao Lãng, “Nhưng nàng thay đổi ta.”
“Nàng khiến ta hiểu mình không lựa chọn trốn tránh mãi được. Ai cũng là người bình thường, ta đâu thể mong chờ trên đời sẽ có minh quân luôn đưa ra quyết định chính xác bất kể chuyện gì xảy ra chăng nữa. Làm thần tử thì nếu bất mãn với quốc gia, ta phải thay đổi nó; nếu bất mãn với quân vương thì cũng phải thay đổi hắn. Đáng lẽ bệ hạ sẽ trở thành bạo quân nhưng hôm nay chẳng phải ngài đã cởi giáp vào thành còn gì?”
“Với suy nghĩ này,” Chu Cao Lãng cười rộ, “thì ngươi không chọn ta vẫn được mà.”
“Những con đường khác đều dẫn đến ngõ cụt,” Cố Cửu Tư kính cẩn đáp.
Chu Cao Lãng chẳng đáp trả, sau một hồi, ông thở dài, “Ta biết rõ dù ngươi tình nguyện chọn ta nhưng trên thực tế, Diệp nhi mới là đích đến cuối cùng của ngươi.”
Cố Cửu Tư không hề biến sắc trước những lời này.
Hắn chẳng ngạc nhiên vì Chu Cao lãng nhìn thấu tâm tư mình. Giang Hà, Phạm Hiên, hay Chu Cao Lãng đều là người đứng trên đầu quyền mưu từ lâu, sao có thể không nhận ra ý tưởng của hắn chứ?
Song Cố Cửu Tư không sợ hãi, hắn thản nhiên nói, “Ta trước sau gì vẫn phò tá Chu gia.”
“Kỳ thật ngươi nói rất đúng,” Chu Cao Lãng từ tốn thừa nhận, “ta chỉ thích hợp làm một thanh đao chứ không phải bậc quân vương. Quân chủ có thể thiếu thông minh hoặc quyết đoán nhưng,” Chu Cao Lãng đưa mắt nhìn Cố Cửu Tư, “hắn tuyệt đối không thể thiếu nhân nghĩa.”
“Thật lòng thì ta chưa bao giờ muốn làm hoàng đế,” Chu Cao Lãng thở dài, “mà chỉ bị ép buộc tới bước đường ấy thôi. Trái tim ta vẫn luôn thuộc về sa trường.”
Lời tâm sự trên khiến Cố Cửu Tư không dám đáp lại, Chu Cao Lãng nâng chén trà nhấp một ngụm rồi ung dung quyết định, “Ta sẽ ngự giá thân chinh[7].”
Chu Cao Lãng bất ngờ nói thế làm Cố Cửu Tư ngẩn ngơ, ông tiếp lời, “Ta sẽ truyền lại ngôi vị hoàng đế cho Diệp nhi, sau đó một lần nữa dẫn dắt các huynh đệ ra chiến trường. Ta già rồi, bây giờ việc duy nhất ta có thể thực hiện là thống nhất thiên hạ thay Diệp nhi lẫn Bình nhi.”
“Cố Cửu Tư, ta không phải người tốt lành gì,” Chu Cao Lãng vừa nhìn Cố Cửu Tư vừa nói bằng chất giọng trầm thấp, “nhưng cũng chẳng phải kẻ xấu xa như các ngươi nghĩ. Ta chỉ là một người bình thường.”
Cố Cửu Tư trao đổi với Chu Cao Lãng xong, hắn mệt mỏi rời đi. Mới tới cửa thì hắn đã thấy Chu Diệp và Diệp Thế An đứng đó.
Hai người lẳng lặng nhìn hắn, Cố Cửu Tư cũng không lên tiếng. Hồi lâu sau, Chu Diệp là người mở miệng trước, “Thật xin lỗi.”
Cố Cửu Tư nghe vậy liền cười.
“Lúc ở Lâm Phần ta đã nói với huynh rồi,” hắn nhẹ nhàng nhắc, “có lời xin lỗi này thì ta vẫn coi huynh là huynh đệ.”
Chu Diệp đứng yên tại chỗ, Cố Cửu Tư tiến lên ôm vai hai người và vui vẻ bảo, “Thôi nào, mọi chuyện đã qua rồi, đừng nghĩ nhiều nữa nhé?”
Diệp Thế An bị hắn ôm đến mất thăng bằng, suýt nữa là ngã sấp mặt. Hắn loạng choạng đi theo Cố Cửu Tư còn Cố Cửu Tư phấn khích tuyên bố, “Hôm nay phải dùng chén lớn để uống, không say không về.”
“Cố Cửu Tư,” Diệp Thế An bị hắn lôi xềnh xệch nên nhịn không được mà nhíu mày, “đừng kéo cổ ta.”
Hắn phàn nàn làm Cố Cửu Tư cười sặc sụa rồi thay đổi tư thế và dẫn hai người tới nội điện.
Đêm xuống, ba người uống say mèm. Bọn họ kể lại một tháng qua của mình trong lúc nốc rượu.
“Ta thật sự sợ đánh nhau…” Diệp Thế An lắc đầu nguầy nguậy. “Ta cứ nhắm mắt là thấy máu, đâu đâu cũng là biển máu. Ta luôn suy nghĩ mình làm đúng hay sai, ta vốn tưởng mình không thể quay đầu lại.”
Hắn kéo tay áo của Cố Cửu Tư mà khóc lóc, “Ta đã nghĩ mình không thể quay đầu lại.”
Cố Cửu Tư cười, hắn vừa vỗ lưng vị huynh đệ đang khóc nức nở vừa đưa mắt nhìn Chu Diệp ngồi cạnh mình. Hắn ấm áp nói, “Không thể quay đầu lại là sao?”
Hắn cười khanh khách, “Chẳng phải còn ta ư? Huynh đệ với nhau nên sao trơ mắt nhìn các ngươi lạc lối được?”
Những lời ấy khiến Chu Diệp sửng sốt. Lát sau, Chu Diệp trịnh trọng nâng chén, “Ta kính ngươi chén rượu này,” hắn thành kính gọi, “Cố Cửu Tư.”
Cố Cửu Tư uống đến nửa đêm mới về. Khi đã ở trong nhà, hắn thấy hai cỗ quan tài nằm trong đại sảnh. Cố Cửu Tư thẫn thờ nhìn giây lát rồi căn dặn, “Bố trí linh đường, đồng thời thông báo cho lão gia, đại phu nhân, thiếu phu nhân và nhạc mẫu trở về.”
Quản gia tuân lệnh rồi đi sắp xếp ngay. Cố Cửu Tư cho mọi người lui xuống để ngồi một mình ở đại sảnh và bầu bạn với hai người đang yên giấc trong quan tài.
Lụa trắng bay phấp phới tại đại sảnh, Cố Cửa Tư nhớ lại hồi còn nhỏ khi mới đến Đông Đô. Đông Đô thuở ấy không phồn hoa bằng hiện tại nhưng vẫn đông người nhốn nháo qua lại, Giang Hà lén dẫn hắn ra ngoài chơi mà không cho Giang Nhu biết. Hắn thấy có người biểu diễn phun lửa bèn kéo Giang Hà chen vào đám đông. Vóc dáng Cố Cửu Tư thấp bé nên không thấy gì hết, hắn nhìn các bạn nhỏ khác cưỡi lên vai phụ thân liền chỉ trỏ rồi vòi vĩnh Giang Hà, “Cữu cữu, con muốn cưỡi, cho con cưỡi.”
Mặt mũi Giang Hà đen sì, ông đang định kéo hắn đi thì Cố Cửu Tư ngồi bệt xuống đất và khóc toáng lên. Giang Hà thật bất lực, ông cắn răng kéo hắn đi mua mặt nạ. Khi quay về, ông đặt hắn trên vai mình.
“Cố Cửu Tư, ta nói ngươi hay,” Giang Hà nghiến răng nghiến lợi, “đến hồi ta già mà ngươi không báo hiếu thì ta đánh chết ngươi.”
Cố Cửu Tư nghĩ mình say thật rồi, hắn thấy bóng hình Giang Hà hiện lên đầy sinh động giữa ánh nến. Hắn đỡ trán và nghẹn ngào bật khóc.
Bây giờ ta có thể báo hiếu ông…
Hắn nghĩ, Nhưng sao ông lại ra đi?
Cố Cửu Tư say rượu cả đêm. Sáng sớm hôm sau, hắn nhận được tin Chu Cao Lãng điểm binh suốt đêm và đã phái quân chi viện đến Dự Châu.
Sau đấy Chu Cao Lãng chuẩn bị đại lễ để hai ngày sau chính thức đăng cơ.
Lễ đăng cơ của ông cực kỳ đơn giản, nó vắng bóng hết thảy những bộ trang phục xa hoa long trọng và mộc mạc như con người ông vậy. Ngày đăng cơ, ông tuyên bố lập Chu Diệp làm thái tử rồi để hắn ở lại Đông Đô giám quốc. Hôm sau, ông đích thân dẫn theo binh lính tiến thẳng về Dự Châu.
Chu Cao Lãng đi chưa đầy ba ngày, người Cố gia lục tục xuất phát. Nhờ được Chu Cao Lãng chi viện nên Thẩm Minh và Diệp Vận cũng quay về Đông Đô. Liễu Ngọc Như hoãn lại ngày về do bị bệnh, nàng tới Đông Đô một ngày trước khi đưa tang Giang Hà.
Khi nàng đến nơi, Đông Đô đã khôi phục khung cảnh phồn hoa trước kia. Suy cho cùng, nó không phải chịu binh biến gì nên tốc độ hồi phục rất thần tốc.
Cố Cửu Tư đến cổng thành đón nàng, Liễu Ngọc Như ngồi trên xe ngựa và nhìn thấy hắn từ xa. Hắn khoác áo choàng đỏ sậm, mái tóc cột hờ, trong tay là cây quạt nhỏ; hắn quả thật mang dáng vẻ của một vị công tử tuấn tú nho nhã.
Thấy xe ngựa Liễu Ngọc Như tới, hắn nhanh chân nhảy lên xe. Liễu Ngọc Như ôm lò sưởi cầm tay mà nghiêng người tránh hắn, Cố Cửu Tư vội lại gần kiểm tra nàng, “Ta nghe nói nàng bị bệnh nên định đi Vĩnh Châu nhưng không thoát được đống việc chồng chất như núi.”
Liễu Ngọc Như chả nói gì hết, Cố Cửu Tư hỏi han, “Trên đường đến đây có ăn gì chưa?”
Liễu Ngọc Như vẫn giữ nguyên dáng vẻ ốm yếu để ngó lơ Cố Cửu Tư.
Cố Cửu Tư không khỏi cười, “Bệnh tới mức chẳng nói chuyện được à?”
“Chàng thành thật đi,” Liễu Ngọc Như rốt cuộc mở miệng, “khao thưởng tam quân tốn bao nhiêu?”
Câu chất vấn này khiến Cố Cửu Tư ngớ người, sau đấy hắn bật cười, “Hóa ra nàng đang giận hả?”
“Chàng có kiếm tiền đâu,” Liễu Ngọc Như bất mãn đẩy hắn, “nên mới tiêu như rác.”
“Ta sai rồi,” Cố Cửu Tư chớp chớp mắt và dụi người vào nàng, “tha cho ta đi mà. Tuyệt đối không có lần thứ hai đâu.”
Liễu Ngọc Như nghe hắn thề thốt liền nín thinh, nàng chăm chú nhìn hắn. Cố Cửu Tư thấy nàng nhìn không chớp mắt thì cũng hơi ngượng ngùng, “Này, sao nàng nhìn ta dữ thế?”
“Cố Cửu Tư,” Liễu Ngọc Như thở dài, nàng giơ tay nhéo mặt hắn, “cái mặt chàng đắt quá rồi.”
“Ngàn vàng cũng chả mua nổi nó đâu.”
Cố Cửu Tư hứng chí nhào tới ôm Liễu Ngọc Như. Khi đã ôm nàng và cảm nhận nàng đang ở trong lòng mình, những câu đùa dí dỏm mà hắn chuẩn bị sẵn đều không được cất thành lời.
Hắn dựa vào Liễu Ngọc Như, nàng đưa tay vuốt tóc hắn rồi ôn hòa hỏi, “Thẩm Minh vẫn ổn chứ?”
“Bị thương nhẹ,” tai Cố Cửu Tư lắng nghe tim nàng đập, miệng trả lời, “nhưng có Diệp Vận chăm sóc. Hai người đang trên đường về, ngày mai nàng sẽ gặp bọn họ thôi.”
“Không sao là tốt rồi,” Liễu Ngọc Như thở dài thườn thượt.
Cố Cửu Tư nằm yên trong lòng nàng một hồi mới an ủi, “Nàng đừng lo vụ tiền nong. Chu đại ca đã thương lượng với ta rằng chúng ta cho mượn một phần, quốc khố chi trả một phần. Phần cho mượn sẽ được quốc khố hoàn trả trong vòng năm năm, hoặc trao đổi bằng vật đồng giá.”
Nghe đến đây, Liễu Ngọc Như thoáng ngẩn người rồi cười thành tiếng, “Không ngờ chàng vẫn giữ lại tiền.”
“Ta đâu thể tiêu sạch số tiền do nàng vất vả kinh doanh.”
Cố Cửu Tư ngẩng đầu nhìn nàng, “Mà nói chứ với tình cảnh hiện tại, ta thà ở Dương Châu đánh bài còn hơn.”
“Bậy bạ,” Liễu Ngọc Như giơ tay chọt đầu Cố Cửu Tư rồi ôm hắn, “ta tốt xấu gì cũng là cáo mệnh phu nhân, chàng ở Dương Châu thì ta kiếm được cáo mệnh chắc?”
Cố Cửu Tư dựa vào nàng, không hiểu sao Liễu Ngọc Như nói gì cũng khiến hắn vô cùng vui sướng.
Hai người cùng nhau về Cố phủ, hiện giờ người nhà vẫn đang ở Dương Châu nên trong phủ chỉ có mình bọn họ. Cố Cửu Tư rửa mặt chải đầu cho nàng rồi hai người dùng cơm. Ban đêm, hắn ôm Liễu Ngọc Như làm nàng hồi hộp. Cố Cửu Tư hiểu ý bèn áp trán vào cổ nàng, dịu dàng nói, “Nàng còn mệt, ta không quậy đâu.”
Liễu Ngọc Như bất giác nở nụ cười.
“Chàng kể ta nghe chuyện Đông Đô đi,” Liễu Ngọc Như nắm tay hắn, “nghe bảo chàng lợi hại lắm.”
“Vậy nàng phải kể chuyện Hoàng Hà đấy,” Cố Cửu Tư nhỏ nhẹ bảo, “nghe đâu nàng cũng lợi hại lắm.”
Trong lúc hắn nói, Liễu Ngọc Như xoay người lại ôm cổ hắn rồi kể chi tiết những gì đã xảy ra ở Hoàng Hà. Sau đấy đến lượt Cố Cửu Tư thuật lại chuyện Đông Đô. Bọn họ nói nhẹ nhàng như gió thoảng mây trôi, chỉ cần người kia ở đây thì tình huống ngàn cân treo sợi tóc cũng hóa thành bụi đất và không còn nghiêm trọng đến thế.
Khi kể xong, hai người cũng thấm mệt. Liễu Ngọc Như dựa vào Cố Cửu Tư và hỏi, “Thuộc hạ của Lạc Tử Thương đâu?”
“Đã chạy trốn đêm xảy ra cung biến. Ta sai người truy lùng nhưng phần lớn đều tự sát lúc bị bắt, chỉ có Minh Nhất bảo với ta rằng hắn muốn gặp nàng.”
“Gặp ta?” Liễu Ngọc Như bối rối.
Cố Cửu Tư gật đầu, “Ta đã giam hắn lại. Ngày mai chúng ta hạ táng cữu cữu, ngày kia hạ táng Lạc Tử Thương, đến lúc đó ta sẽ thả Minh Nhất để hắn đưa tiễn Lạc Tử Thương.”
“Chàng không hận y sao?” Liễu Ngọc Như nghe dự định của Cố Cửu Tư thì hơi thắc mắc.
Cố Cửu Tư thẳng thắn thừa nhận, “Có một câu Lạc Tử Thương nói đúng.”
“Y có lỗi với người trong thiên hạ nhưng Cố gia quả thật có lỗi với y.”
“Nếu còn sống, y tất nhiên sẽ bị phanh thây xé xác với những tội ác của mình. Song y đã chết và mọi chuyện đều thành quá khứ, ta hy vọng y được yên giấc ngàn thu.”
Hai người vừa trò chuyện vừa từ từ chìm vào giấc ngủ.
Hôm sau, bọn họ đưa Giang Hà lên núi để hạ táng.
Giang gia có phần mộ tổ tiên tại Đông Đô, dù hồi xưa Giang Hà từng mua đất ở Dương Châu nhưng Giang Nhu cuối cùng vẫn quyết định chôn cất Giang Hà lẫn Lạc Tử Thương ở Đông Đô.
“Đệ ấy mua đất vì cô nương kia,” Giang Nhu giải thích, “cô nương đã thành thê tử của người khác thì nên buông tay. Nếu đệ ấy còn sống cũng sẽ muốn như thế.”
Ngày đưa Giang Hà lên núi, rất nhiều người đến tiễn đưa ông.
Tuy tính Giang Hà khoa trương nhưng ông rất biết cách đối nhân xử thế và được lòng nhiều người tại Đông Đô. Ngày hạ táng ông, trời trong nắng ấm như con người Giang Hà; có ra đi cũng trong tư thế rực rỡ động lòng người.
Có lẽ một cuộc đời như thế chẳng còn gì tiếc nuối. Ông đã làm những điều nên làm và hoàn thành tâm nguyện của bản thân, vì vậy mọi người không quá bi thương. Chỉ mỗi Giang Nhu cúi gằm đầu mà khóc thút thít, còn Cố Lãng Hoa lặng lẽ ôm bà. Cố Cửu Tư mặc đồ tang và tự tay hạ táng ông.
Khi bia mộ đã được dựng lên, mọi người đều giải tán. Diệp Vận đứng cạnh tấm bia, Thẩm Minh kiên nhẫn chờ nàng ấy. Đến lúc phải xuống núi thì Thẩm Minh mới lên tiếng, “Đi thôi.”
Diệp Vận phục hồi tinh thần, nàng ấy gật đầu rồi cùng Thẩm Minh xuống núi.
Trên đường đi, hai người không nói câu nào. Thẩm Minh do dự một lát nhưng vẫn nắm tay Diệp Vận.
“Về sau ta sẽ đối tốt với ngươi,” hắn vụng về cam đoan.
Diệp Vận nghe hắn nói thì sửng sốt, nàng ấy bật cười, “Ngươi đừng ghen,” nàng ấy bảo, “ta nhỏ tuổi nên mới bị mê hoặc.”
“Người như Giang đại nhân,” khuôn mặt Diệp Vận đượm vẻ xa xăm, “quá chói mắt.”
Người kiệt xuất lại chói lòa như thế chỉ nên để mọi người ngưỡng mộ, ông kiêu ngạo bước vào thế gian này rồi tiêu sái rời đi.
Sau hôm hạ táng Giang Hà, Cố gia âm thầm nâng Lạc Tử Thương lên núi. Ngày đó Cố Cửu Tư thả Minh Nhất ra khỏi ngục, Minh Nhất vừa thấy quan tài của Lạc Tử Thương liền thất thần. Cố Cửu Tư bình thản nói, “Nếu muốn thì hãy tiễn y đoạn đường cuối này đi.”
“Ngươi không sợ ta chạy sao?” Minh Nhất chỉ tay về phía quan tài.
Cố Cửu Tư lắc đầu, “Ngươi chạy thì ta bắt lại là được.”
Minh Nhất im lặng thật lâu rồi khàn khàn đáp, “Cảm ơn.”
Dứt lời, hắn tới trước cọc gỗ rồi cùng những người khác khiêng quan tài của Lạc Tử Thương.
Cố Cửu Tư không cho người ngoài biết mình hạ táng Lạc Tử Thương. Sau khi lặng thầm đưa y lên núi, Cố Cửu Tư lẫn Minh Nhất xúc đất chôn cất y. Sau đấy Cố Cửu Tư chôn xuống tấm bia đã được chuẩn bị chu đáo. Minh Nhất thấy bia đá đề dòng chữ “Mộ của Tri Nhân nhà Giang thị”.
“Giang Tri Nhân…” Minh Nhất ngỡ ngàng lẩm bẩm cái tên này.
Cố Cửu Tư đứng cạnh hắn, giải thích, “Mẫu thân nói đây là cái tên năm xưa cữu cữu đặt cho con. Quân tử có cửu tư, quân tử hiểu nhân đức. Y không thể chết mà chẳng có lấy một tên gọi thuộc về mình.”
Minh Nhất không nói gì, Cố Cửu Tư đã cho hắn biết mọi thứ xung quanh cuộc đời Lạc Tử Thương. Hắn lẳng lặng nhìn bia mộ, Cố Cửu Tư quay sang hỏi, “Ngươi có chuyện gì muốn nói với Ngọc Như?”
“Ta muốn trao trả một thứ,” Minh Nhất hoàn hồn, hắn bảo, “hai người hãy đi cùng ta.”
Nói rồi Minh Nhất dẫn bọn họ xuống núi.
Ba người đến Lạc phủ, nơi đây đã bị niêm phong. Cố Cửu Tư tuân thủ đúng quy trình mà báo cho Chu Diệp, sau đấy hắn đưa Minh Nhất vào.
Lạc phủ nho nhã xinh đẹp một thời giờ âm u vô cùng; bụi bám dày đặc cùng cỏ dại mọc tràn lan trong sân khiến nó càng lạnh lẽo hơn.
Minh Nhất dẫn Cố Cửu Tư và Liễu Ngọc Như đi sâu vào trong, hắn chậm rãi nói, “Trước kia đại nhân luôn cất kỹ món đồ này nhưng sau ngày Tiêu công tử chết, đại nhân dặn ta nếu gặp Liễu phu nhân thì hãy trả lại cho ngài.”
Ba người tới phòng ngủ của Lạc Tử Thương, Minh Nhất mở cửa mật thất và cả ba bước vô.
Sau đó hắn kéo một ngăn tủ rồi lấy chiếc dù từ bên trong ra, hắn giao dù cho Liễu Ngọc Như và nhẹ nhàng bảo, “Phu nhân, ta xin trả vật về chủ cũ.”
Liễu Ngọc Như ngơ ngác nhìn; sau cùng nàng nhận ra đây là chiếc dù mình tiện tay đưa Lạc Tử Thương tại bến tàu Dương Châu.
Minh Nhất nâng dù trong tay, Liễu Ngọc Như nhìn họa tiết hoa lan ở mặt trên mà tưởng chừng đã quay về Dương Châu năm ấy, khi Lạc Tử Thương bất chợt ngoảnh đầu lại giữa dòng người.
Nàng vươn tay, trong đầu hiện lên vô số hình ảnh của Lạc Tử Thương.
Nhưng cuối cùng tâm trí nàng dừng lại ở cảnh tượng Tiêu Minh bị treo trên cổng thành và hoàng hôn đỏ quạch như máu.
Hắn vốn là một nhi lang tốt.
Khoảnh khắc cầm lấy chiếc dù, nước mắt của Liễu Ngọc Như chảy xuống. Minh Nhất hơi sững sờ, thế rồi hắn nở nụ cười.
“Có thể nhận được một giọt nước mắt từ phu nhân,” Minh Nhất dịu dàng nói, “đại nhân chết cũng không hối tiếc.”
Vào ban đêm, Liễu Ngọc Như và Cố Cửu Tư mời Minh Nhất dùng cơm tại quán ăn ưa thích của hắn ở Đông Đô. Minh Nhất kể hồi hắn còn nhỏ, gia đình là bần nông nên bị người chiếm đoạt đất đai. Phụ mẫu rơi vào đường cùng mới bán hắn đi, từ đó hắn trở thành tôi tớ.
Thuở thơ ấu, chủ tử đam mê ngược đãi trẻ em khiến cuộc đời Minh Nhất tăm tối không ánh sáng đến tận ngày Lạc Tử Thương mua hắn vào năm mười một tuổi.
Lúc ấy Lạc Tử Thương đã là đệ tử của Chương Hoài Lễ, là Lạc công tử được người đời kính trọng.
“Ngài ấy khen ta có thiên phú tập võ. Thật ra khi đấy tuổi ta hơi lớn rồi,” thanh âm Minh Nhất trong sáng, “nhưng công tử nói ta làm được thì ta chắc chắn làm được.”
“Các ngươi…” giọng Liễu Ngọc Như nghèn nghẹn, “đều như vậy sao?”
“Hả?” Minh Nhất chưa hiểu ý nàng.
Liễu Ngọc Như khàn khàn bảo, “Tiêu Minh kể hắn cũng được Lạc Tử Thương nhặt về.”
“Phải,” Minh Nhất khẽ cười, “Tiêu công tử cũng vậy. Đáng lẽ hồi đó Tiêu công tử học võ chung với ta nhưng công tử thấy hắn sáng dạ nên tiến cử hắn cho Chương đại sư.”
“Nếu Chương đại sư làm nhiều thứ vì y như thế,” Cố Cửu Tư cau mày, “sao y lại giết ông ấy?”
Câu hỏi trên khiến Minh Nhất trầm mặc thật lâu mới tiết lộ, “Không phải công tử muốn giết Chương đại sư mà là Chương đại sư muốn giết công tử.”
“Công tử định báo hiếu Chương đại sư cả đời nhưng sau khi biết chân tướng vụ trẻ mồ côi Lạc gia, Chương đại sư muốn giết ngài ấy. Trên ngực công tử có vết kiếm do Chương đại sư đâm.”
“Nếu Chương đại sư không đâm công tử và buộc công tử giết ông ấy, nếu Chương đại sư còn sống, có lẽ…”
Minh Nhất im bặt, sau đấy hắn cười cười, “Thôi, mọi chuyện cũng đã qua.”
Minh Nhất dùng cơm xong, Cố Cửu Tư và Liễu Ngọc Như đưa hắn về nhà lao. Cố Cửu Tư dặn dò vài câu rồi trấn an, “Sắp tới Lý đại nhân sẽ đích thân thẩm tra ngươi. Hắn xưa nay công bằng chính trực nên ngươi khỏi lo, chỉ phán xử những tội ngươi làm chứ chẳng gán tội vô lý.”
“Ta hiểu,” Minh Nhất cười, “ngài[8] nhọc lòng rồi.”
Cố Cửu Tư không đáp lại, hắn chưa bao giờ nghĩ sẽ có ngày mình trò chuyện đàng hoàng với người của Lạc Tử Thương.
Hắn im lặng trong phút chốc rồi gật đầu, hắn tạm biệt Minh Nhất và nắm tay Liễu Ngọc Như rời đi.
Minh Nhất ngồi quỳ trên mặt đất, hắn dõi theo hình ảnh Cố Cửu Tư với Liễu Ngọc Như tay trong tay.
Cố Cửu Tư sở hữu thân hình khá giống Lạc Tử Thương, Minh Nhất nhìn mà như thấy được một phiên bản khác của y. Hắn chợt cất tiếng gọi Cố Cửu Tư, “Cố đại nhân!”
Cố Cửu Tư dừng bước, hắn lẫn Liễu Ngọc Như quay đầu lại. Minh Nhất chần chừ hỏi, “Cảm giác khi làm người tốt là thế nào?”
Cố Cửu Tư thoáng trầm ngâm và trả lời, “Là thấy thế gian này thật đẹp đẽ và hiền hòa, là thấy nội tâm ngay thẳng không vương chút áy náy. Hân hoan chào đời, chết cũng chẳng hổ thẹn.”
Lời đáp trả của hắn khiến Minh Nhất cười một tiếng.
“Nếu có kiếp sau,” hắn chân thành bảo, “hy vọng được sống như Cố đại nhân.”
Cố Cửu Tư lặng thinh hồi lâu rồi chúc, “Nếu có kiếp sau, mong quân sinh ra trong thái bình thịnh trị và cả đời thuận buồm xuôi gió.”
“Đa tạ,” Minh Nhất cười xán lạn.
Cố Cửu Tư dắt tay Liễu Ngọc Như ra ngoài.
Bọn họ vừa rời khỏi nhà tù đã nghe phía sau ầm ĩ cả lên. Cố Cửu Tư quay lại nhìn ngục tốt chạy đến thông báo, “Đại nhân, Minh Nhất tự sát!”
Cố Cửu Tư không ngạc nhiên, hắn khẽ gật đầu rồi dặn, “Hãy chôn cất tử tế.”
Dứt lời, hắn và Liễu Ngọc Như đi thẳng ra cổng. Trời hơi lạnh, Cố Cửu Tư đặt tay lên vai Liễu Ngọc Như để chắn gió cho nàng.
Liễu Ngọc Như sánh bước bên hắn dưới bầu trời đêm, nàng bỗng gọi, “Cửu Tư.”
“Hửm?”
“Ta muốn kiếm tiền, kiếm thật nhiều tiền.”
“Ừ.”
“Nhưng lần này ta không làm vì chàng.” Liễu Ngọc Như vừa nói vừa nhìn người bên cạnh, nàng mỉm cười. “Ta muốn xây dựng nhà từ thiện và học đường. Ta nghĩ,” giọng Liễu Ngọc Như điềm đạm, “mình chẳng quan tâm những việc Lạc Tử Thương, Tiêu Minh, Minh Nhất đã làm vì điều đó không thay đổi kết cục của bọn họ. Song ta hy vọng thế gian này không còn người như họ.”
“Tiêu Minh tài hoa thì nên có nơi giúp đỡ hắn học cho giỏi. Nhà Minh Nhất bần hàn thì cũng cần một lối thoát, để hắn không tới mức còn bé đã nhận hết tra tấn và chẳng đủ sức kiếm ăn. Dẫu Lạc Tử Thương bị vứt bỏ ở chùa miếu thì nghĩa phụ của y vẫn chẳng đáng bị đánh chết mà không có chỗ giải oan…”
“Những người giống bọn họ không nên xuất hiện trên đời.”
“Được,” Cố Cửu Tư dịu dàng ôm Liễu Ngọc Như, “ta giúp nàng.”
Liễu Ngọc Như nghe vậy bèn ngẩng đầu nhìn hắn. Qua bao nhiêu năm, nam nhân trước mặt nàng vẫn giống hệt ngày xưa; dù trải nghiệm việc đời nhưng mãi mãi thanh tịnh sạch sẽ.
Người thường sẽ trầm luân giữa vũng bùn, sẽ chới với trong bóng đêm của nỗi tuyệt vọng.
Cố Cửu Tư là tia sáng rực rỡ nhất trong lòng người. Nếu rơi vào vũng bùn, hắn sẽ thanh lọc và biến nó thành hồ nước trong vắt. Nếu bị nhốt trong bóng tối, hắn sẽ tự làm ngọn đèn chiếu sáng con đường phía trước.
Hắn là sợi dây thừng lẫn bức tường trấn giữ ranh giới cuối cùng của mọi người, vĩnh viễn không thoái nhượng.
Vì người như hắn tồn tại nên mới có nhiều người thức tỉnh giữa bóng tối và thấy ánh mặt trời phá tan màn đêm, để ngừng lại những tội lỗi chồng chất.
Cố Cửu Tư ôm Liễu Ngọc Như, hai người vai kề vai thong thả trở về nhà.
Liễu Ngọc Như ngước nhìn sao trời lấp lánh và ngửi thấy hương hoa của sơn hà thoang thoảng trong gió.
“Cố Cửu Tư.”
Nàng đột nhiên gọi tên hắn, Cố Cửu Tư quay lại thấy Liễu Ngọc Như đang mím môi cười.
“Không có gì,” nàng cầm tay hắn, vui vẻ bảo, “ta đưa chàng về nhà.”
Năm Khang Bình thứ nhất, Ai Đế của Đại Hạ phế bỏ nội các dẫn đến thiên hạ náo loạn. Cố Cửu Tư lập kế hoạch quyết định toàn cục; đoạt Dương Châu, cứu Dự Châu, xử lý thiên tai ở Hoàng Hà, bảo vệ bá tánh Đông Đô, cứu Đại Hạ khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng.
Tháng chín năm An Kiến thứ nhất, Ai Đế nhường ngôi cho Điện tiền đô điểm kiểm Chu Cao Lãng. Lúc đó Đại Hạ đang đối mặt với chiến tranh, Thái Tông ngự giá thân chinh và giao trách nhiệm giám quốc cho Diệp Thái tử. Đồng thời phong Cố Cửu Tư làm tả tướng, Diệp Thế An là hữu tướng, còn Thẩm Minh đảm nhiệm điện tiền đô điểm kiểm. Tất cả bọn họ phụ trách trấn giữ Đông Đô.
Trong thời gian Diệp Thái tử giám quốc, hắn giảm nhẹ thuế má lẫn lao dịch, mở rộng mậu dịch, và trợ cấp nông nghiệp. Phú thương Cố Liễu thị xây dựng nhà từ thiện trong nước cũng như kinh doanh với ngoại bang, giới thiệu các loại hình lương thực lẫn kỹ thuật của quốc gia khác cho Đại Hạ. Những hành động trên đạt thành quả là vật tư dồi dào và bá tánh an khang.
Tháng ba năm An Kiến thứ tư, Thái Tông đánh hạ Ích Châu để thống nhất sơn hà rồi trở về Đông Đô. Ông mắc bệnh khó chữa do chinh chiến hàng năm nên không thể chịu gánh nặng từ việc trị nước, vì vậy ông truyền ngôi cho thái tử và lập Chu Bình làm trữ quân.
Chu Diệp đăng cơ vào ngày mùng tám tháng tư năm An Kiến thứ tư, hắn tổ chức đại lễ tại tế đàn giữa khung cảnh trăm hoa nở rộ.
Đại Hạ giao lưu rộng rãi với nước ngoài nên ngày ấy sứ giả các nước lẫn quần thần đứng chật kín tế đàn.
Chu Diệp đi xe ngựa từ trong cung tới tế đàn. Hắn mặc miện phục trên đen dưới đỏ với họa tiết chương văn thêu ở viền tay áo; ngoài ra còn bọc đầu gối, dải lụa, giày đỏ, và mũ miện có hai mươi tràng hạt[9]. Chu Diệp hơi căng thẳng nhưng vẫn ưỡn ngực thẳng lưng cũng như giữ mắt nhìn thẳng. Từ giây phút ra khỏi cung điện, hắn đã nghe tiếng bá tánh hoan hô. Mỗi một nơi xe ngựa của hắn đi qua đều có bá tánh quỳ xuống.
Thanh âm này khiến hắn bình tâm.
Đây là Đại Hạ của hắn.
Là quốc gia mà hắn, Cố Cửu Tư, Thẩm Minh, Diệp Thế An, Liễu Ngọc Như, Diệp Vận, Lý Ngọc Xương…dùng cả đời để thành lập và cống hiến.
Hắn xuất phát từ hoàng cung, sau đó được thái giám dìu xuống xe ngựa. Kế tiếp hắn bước vô tế đàn và đập vào mắt hắn là thảm đỏ trải dài đến đài cao. Những thần tử quan trọng nhất của quốc gia đứng thành hai hàng trên bậc thang; hai người một bậc, phân ra bên trái cùng bên phải.
Bọn họ mặc trang phục dùng trong đại lễ. Cố Cửu Tư là màu đỏ còn Diệp Thế An là màu trắng, đỉnh đầu hai người cài quan ngọc với thanh kiếm sau lưng. Dưới bọn họ là Lý Ngọc Xương, Thẩm Minh, Tần Nam, Phó Bảo Nguyên…
Tất cả mọi người chăm chú dõi theo hắn với nụ cười trên môi, tựa ánh sáng mặt trời lại tựa cảnh xuân tràn đầy sức sống.
Chu Diệp làm theo lễ nghi mà hướng tới đài cao giữa lời chúc phúc của lễ quan[10].
Cùng lúc ấy tại cổng thành Đông Đô, Diệp Vận dẫn theo Vân Vân và Tống Hương chạy thẳng lên trên.
“Ngọc Như, Ngọc Như!”
Diệp Vận chạy về phía chiếc chuông lớn trên cổng thành, cao hứng thông báo, “Tới rồi, bệ hạ đã tới tế đàn!”
Đứng bên cạnh chuông là một nữ tử mặc áo tím sở hữu vẻ mặt nhã nhặn cùng khí chất đoan trang.
Đây là phú thương đệ nhất Đại Hạ, là người được Thái Tông ban thưởng danh xưng “Liễu phu nhân”, là thê tử của tả tướng đương triều – Liễu Ngọc Như.
Theo tổ chế[11], các nàng không có tư cách đến tế đàn tham dự lễ đăng cơ. Song để khen ngợi công lao của Liễu Ngọc Như đối với Đại Hạ mấy năm qua, Chu Diệp chọn nàng làm người gõ chuông vào buổi lễ này.
Giây phút tiếng chuông vang lên, buổi lễ chính thức bắt đầu.
Trong lịch sử Đại Hạ, đây là nữ tử – chưa kể còn là thương nhân – đầu tiên và cũng là duy nhất nhận được vinh hạnh đặc biệt như thế. Nhưng với Liễu Ngọc Như mà nói, chuyện này không quan trọng.
Nàng vẫn giống hệt xưa nay, thong dong lại bình thản.
Diệp Vận kích động hơn nàng nhiều, nàng ấy nhìn bộ dạng của Liễu Ngọc Như mà không khỏi phàn nàn, “Liễu Ngọc Như, bộ ngươi là Bồ Tát hả? Có thể biểu cảm hơn xíu không? Ngươi chả thấy phấn khích à? Chu đại ca đăng cơ báo hiệu thời đại của chúng ta sắp tới đấy.”
Liễu Ngọc Như nghe vậy thì mấp máy môi và bật cười, “Thời đại của chúng ta không phải đã bắt đầu từ lâu rồi sao?”
Lời này khiến Diệp Vận ngỡ ngàng. Đúng lúc ấy, cung nhân chạy đến nhắc Liễu Ngọc Như, “Liễu phu nhân hãy gõ chuông đi.”
Liễu Ngọc Như gật gù, nàng nâng tay cầm cọc gỗ đánh lên chiếc chuông.
Một lần, hai lần, ba lần…
Chín là con số của thiên tử nên nàng gõ tổng cộng chín lần.
Khi tiếng chuông đầu tiên vang lên, chim trong thành vỗ cánh bay và những dải lụa đủ sắc màu được thả từ trên cao xuống. Pháo hoa nổ rộn ràng khắp Đông Đô, trên đài múa ở mọi nơi là nữ tử với tay áo như những đóa hoa bừng nở. Tiếng sáo trúc cùng các nhạc cụ khác bắt nhịp với tiếng reo hò từ bá tánh mà bao bọc toàn Đông Đô.
Dưới ánh nắng, Cố Cửu Tư ngẩng đầu nhìn cổng thành ở đằng xa.
Ánh mắt hắn xuyên qua bức tường quanh tế đàn, xuyên qua nóc nhà lẫn mái hiên, xuyên qua tháp quan sát để hướng tới vị trí cao nhất trên cổng thành.
Hắn mơ hồ thấy vạt áo tím tung bay và ngửi được hương hoa theo cơn gió lan tỏa khắp lãnh thổ bạt ngàn của Đại Hạ–
Ca múa đón chào thịnh thế, ánh sáng chiếu rọi nhân gian.
******
Lời tác giả
Đây có lẽ là bộ truyện dài nhất tôi từng viết cũng như viết trong thời gian lâu nhất. Tôi không ngờ mình sẽ viết nhiều đến thế, rất cảm ơn mọi người đã đi cùng tôi trên chặng đường này.
Quá trình đăng chương chưa ổn định song tôi sáng tác Trường Phong Độ nhằm chỉnh sửa khuyết điểm trong quá khứ nên mới từ bỏ việc đăng chương đều đặn hàng ngày. Tuy chẳng biết mình có tiến bộ không nhưng tôi đã cố hết sức. Tôi sẽ điều chỉnh lại vài chi tiết, chúng không ảnh hưởng gì mấy nên đừng lo.
Thật lòng thì tôi không hổ thẹn với bộ truyện nhưng lại hổ thẹn với độc giả. Vì thế tôi vô cùng cảm kích khi mọi người bao dung và đồng hành cùng tôi đến phút cuối. Tôi xin được nói lời cảm ơn đến mọi người.
Cảm ơn mọi người, tôi rất yêu các bạn.
******
Chú thích
[1] Ý chỉ tường thành bao quanh cung điện.
[2] 17 giờ đến 19 giờ tối.
[3] Gánh nặng thuế (tiếng Anh: Tax burden) là tổng mức thuế đánh vào cư dân một nước dưới hình thức thuế thu nhập, thuế công ty, thuế doanh thu, etc.
[4] Nguyên gốc là: Phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật. Chữ Phật ở đây dùng để chỉ tâm thiện, hoặc người tốt. Ý nói người làm ác chỉ cần quyết tâm bỏ ác và hướng thiện thì sẽ trở thành người tốt.
[5] Không phải gõ sai tên đâu nha. Nếu các bạn còn nhớ thì trước khi vào cung hầu hạ Phạm Ngọc, Cố Cửu Tư đã dặn Tây Phượng đổi tên thành Tây Phong (chương 169). Thật ra bản gốc tác giả vẫn để Tây Phượng, nhưng mình thấy không hợp lý nên đổi thành Tây Phong.
[6] Lúc này Phạm Ngọc đang chân thành tâm sự nên xưng hô từ “trẫm” thành “ta”.
[7] Nhà vua đích thân chỉ huy binh lính trên chiến trường.
[8] Lúc này Minh Nhất có sự kính trọng nhất định dành cho Cố Cửu Tư nên đổi xưng hô thành “ngài”.
[9] Miện phục là loại lễ phục được vua chúa cổ đại mặc vào những nghi thức trang trọng. Chương văn là các họa tiết dùng để phân biệt cấp bậc trên trang phục của đế vương và quan lại.