Yêu Dấu (Beloved)

Chương 24
Trước
image
Chương 25
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
Tiếp

Đấy là một nhà thờ nhỏ xíu, không lớn hơn phòng khách của một ông nhà giàu. Những ghế dài không có lưng tựa, và vì giáo đoàn cũng là ca đoàn, nhà thờ không cần ghế ngồi hát thánh ca. Vài giáo dân đã được giao việc xây một cái bệ để mục sư đứng cao trên giáo đoàn vài phân, nhưng việc ấy không hẳn là việc cấp bách, vì việc quan trọng là dựng một cây thánh giá trắng bằng gỗ sồi đã làm xong. Trước khi là nhà thờ Đấng Cứu Thế, tòa nhà là một tiệm bán đồ khô, không cần cửa sổ bên cạnh, chỉ cần cửa sổ phía trước để bày hàng. Những cửa sổ này đang được dán giấy che lại trong khi giáo dân cân nhắc xem nên sơn cửa sổ hay che màn – làm thế nào để cỏ sự riêng tư mà không mất đi chút ánh sáng chiếu rọi. Mùa hè cửa nhà thờ mở cho thoáng. Mùa đông một cái lò bằng sắt ở giữa lối đi gắng hết sức để sưởi ấm. Phía trước nhà thờ là một hàng hiên vững chắc, nơi trước kia khách hàng thường ngồi, và lũ trẻ con cười nhạo thằng bé mắc kẹt cái đầu giữa những chấn song.

Trong một ngày tháng Một có nắng và lặng gió. Nếu cái lò sắt không được đốt lên, thật ra bên ngoài nhà thờ ấm hơn bên trong. Hầm nhà ẩm ướt khá ấm, nhưng không có ánh sáng rọi vào tấm nệm rơm hay bồn rửa mặt hay cái đinh có thể dùng để treo quần áo của một người đàn ông. Ánh đèn dầu trong hầm nhà ảm đạm, cho nên Paul D ngồi trên bậc thềm hàng hiên và tìm thêm hơi ấm từ chai rượu nhét trong túi áo choàng. Hơi ấm và mắt đỏ. Anh kẹp hai cổ tay giữa hai đầu gối, không phải để giữ yên tay mình, nhưng vì anh không có thứ gì khác để nắm. Lon thuốc lá của anh bị thổi bật tung vung vãi những thứ bên trong ra, những thứ mặc ý trôi nổi và biến anh thành con mồi và trò chơi của chúng.

Anh không thể hiểu tại sao chuyện ấy lâu đến thế mới xảy ra. Đáng lẽ anh nên nhảy vào lửa với Sixo, cười thỏa thích với Sixo. Sớm muộn gì anh cũng phải đầu hàng, tại sao không đầu hàng với tiếng cười, hét Bảy-Không! Tại sao không? Tại sao lại trì hoãn? Anh đã nhìn thấy anh mình vẫy tay từ giã phía sau trên chiếc xe bò, gà rán trong túi, mắt đẫm lệ. Mẹ. Cha. Anh không nhớ người này. Chưa bao giờ thấy người kia. Anh là đứa nhỏ nhất trong ba anh em (cùng mẹ khác cha) được bán cho Garner và được giữ lại ở đó hai mươi năm, bị cấm không được rời nông trại. Một lần ở Maryland anh gặp bốn gia đình nô lệ đã ở cùng với nhau một trăm năm: ông bà cố, ông bà nội, mẹ cha, dì cậu, anh chị em họ, con cái. Lai nửa trắng, lai trắng một phần, đen hoàn toàn, lai da đỏ. Anh nhìn họ với lòng nể sợ và ghen tỵ, và mỗi lần anh khám phá ra những đại gia đình da đen, anh bắt họ chỉ đi chỉ lại ai là ai, quan hệ thế nào thật ra ai thuộc về ai.

Người ấy là cô tôi. Người này là con cô ấy. Đằng kia là em họ ba tôi. Mẹ tôi lấy chồng hai lần – đây là em cùng mẹ khác cha của tôi và đây là hai con của nó Vợ tôi.

Anh chưa bao giờ có cái gì như vậy, và khi anh lớn lên ở Tổ Ấm anh không thấy thiếu nó. Anh có anh em của mình, hai người bạn, Baby Suggs trong bếp, ông chủ dạy cho họ biết bắn súng và lắng nghe điều họ nói. Một bà chủ làm xà phòng cho họ và không bao tờ lớn tiếng. Suốt hai mươi năm tất cả bọn họ sống trong cái nôi ấy. Cho đến khi Baby đi khỏi. Sethe đến, và Halle lấy chị. Halle tạo dựng gia đình với chị, và Sixo sống chết muốn tạo dựng gia đình với Người-đàn-bà -ba-mươi-dặm. Khi Paul D vẫy tay từ giã người anh lớn nhất, ông chủ đã chết, bà chủ lo lắng và chiếc nôi đã vỡ đôi. Sixo nói thầy thuốc làm bà Garner ốm. Nói ông ta cho bà uống thứ người ta cho ngựa sống uống khi chúng gẫy chân và người ta không có dư thuốc súng để giết chúng và nếu không phải vì lề luật mới của thầy giáo, nó sẽ nói với bà như vậy. Họ cười nhạo nó. Sixo chuyện trò với vẻ thành thạo về mọi thứ. Luôn cả cơn đột quỵ của ông Garner mà nó nói là do một phát súng gã hàng xóm ghen tị đã bắn vào tai ông.

“Thế máu đâu?” Họ hỏi nó.

Không có máu. Ông Garner về nhà người gục trên cổ con ngựa cái của ông, toát mồ hôi và trắng xanh. Không có một giọt máu nào. Sixo lầm bầm, nó là người duy nhất không tiếc vì ông đã mất. Dù sao đi nữa, sau đó nó tiếc lắm, họ đều tiếc lắm.

“Tại sao bà ấy nhờ hắn?” Paul D hỏi. “Tại sao bà ấy cần thầy giáo?”

“Bà ấy cần người biết làm tính.” Halle nói.

“Mày có thể làm tính.”

“Không giỏi như vậy.”

“Không đâu. tụi bay.” Sixo nói. “Bà cần thêm một người da trắng ở chỗ này.”

“Để làm gì?”

“Mày nghĩ sao? Mày nghĩ sao?”

Chuyện là thế. Không ai tính đến chuyện Garner chết. Không ai nghĩ ông có thể chết. Lạ lùng chưa? Mọi thứ tùy thuộc vào chuyện Garner sống. Không có cuộc sống của ông, cuộc sống của họ vỡ tan tành. Đấy không phải là nô lệ thì là gì? Lúc anh mạnh mẽ nhất, cao hơn những người đàn ông cao, và mạnh hơn đa số, chúng vặt lông bẻ cánh của anh, Paul D. Đầu tiên chúng lấy đi khẩu súng của anh, rồi ý nghĩ của anh, vì thầy giáo không nghe lời khuyên của lũ da đen. Tin tức họ nói ra, hắn gọi là cãi lại. và hắn nghĩ ra những cách trừng phạt khác nhau (mà hắn ghi chép lại trong cuốn sổ của mình) để cải tạo họ. Hắn than phiền rằng họ ăn nhiều quá, nghỉ ngơi nhiều quá, nói nhiều quá, và nếu so sánh họ với hắn, những điều này chắc chắn đúng; vì thầy giáo ăn ít, nói ít hơn và không nghỉ ngơi bao giờ. Một lần hắn thấy họ chơi đùa – một trò chơi ném bóng – và vẻ tổn thương sâu sắc của hắn khiến Paul D phải chơm chớp mắt. Hắn cũng hà khắc với học trò của hắn như với họ – ngoại trừ những cách trừng phạt.

Nhiều năm Paul D tin rằng những người Garner nuôi lớn thành đàn ông đã bị thầy giáo hạ thấp xuống thành những đứa trẻ con. Và họ đã chạy trốn là vì thế. Bây giờ, bị những thứ trong lon thuốc lá quấy rầy, anh tự hỏi thật sự có khác biệt nhiều không trong thời gian trước và sau thầy giáo. Garner gọi và tuyên bố họ là đàn ông – nhưng chỉ ở Tổ Ấm, và với sự cho phép của ông, ông đặt tên cho điều ông thấy hay tạo ra điều ông không nhìn thấy? Đấy là điều Sixo tự hỏi thậm chí cả Halle. Với Paul D rõ ràng lúc nào hai người ấy cũng là đàn ông, bất kể ông Garner có nói như thế hay không. Anh thấy bối rối vì không thể tự bằng lòng về nam tính của mình. Ô, anh làm những việc của đàn ông, nhưng đấy là quà tặng của Garner hay là ý muốn của anh? Anh sẽ như thế nào, nếu anh không ở Tổ Ấm, không có Garner? Ở xứ của Sixo, hay xứ của mẹ anh? Hay Chúa rủ lòng thương, trên con tàu? Có phải chuyện được như thế vì một người da trắng đã nói thế? Giả thử một buổi sáng nào đấy Garner thức giấc và đổi ý? Lấy lại lời ông đã nói. Liệu họ có chạy trốn không? Và nếu anh không chạy trốn, liệu mấy anh em Paul có ở đó trọn đời không? Tại sao mấy anh em cần cả đêm để quyết định? Để bàn thảo xem họ có đi cùng với Sixo và Halle hay không. Vì họ đã bị cô lập trong một lời nói dối tuyệt vời, xem cuộc đời của Halle và Baby Suggs trước khi đến Tổ Ấm là chuyện xui xẻo mà thôi. Mông muội, hay thấy những câu chuyện đen tối của Sixo là thú vị. Được bảo vệ và bị thuyết phục rằng họ đặc biệt. Không hề ngờ đến vấn đề ở Alfred, Georgia. Yêu quá nhiều dáng vẻ của trần thế, chịu đựng bất cứ điều gì và tất cả mọi điều, chỉ để sống sót ở nơi có trăng cho dù anh không có quyền có trăng. Yêu nhỏ giọt và bí mật. Tình yêu nhỏ bé của anh là một thân cây, dĩ nhiên. nhưng không giống như cây Anh Em – già cỗi, to lớn và mời gọi.

Ở Alfred, Georgia, có một cây dương nhỏ quá không đáng được gọi là cây non. Nó chỉ là một chồi cây không cao hơn eo anh. Thứ người ta chỉ để làm roi ngựa. Bài-hát-giết-người và cây dương. Anh sống để hát những bài hát giết cuộc đời và nhìn cây dương chứng thực cuộc đời, và không phút nào anh tin mình có thể chạy trốn. Cho đến khi trời mưa. Sau đó, lúc người Cherokee chỉ tay và bảo anh chạy theo những đóa hoa nở, anh chỉ muốn di chuyển, đi, bắt đầu hôm nay ở chỗ này và đến chỗ khác ngày hôm sau. Cam chịu cuộc sống không có cô dì, anh chị em họ, con cái. Thậm chí không có một người đàn bà, cho đến khi anh gặp Sethe. Và rồi con nhỏ dời chỗ anh. Đúng ngay khi nỗi nghi ngờ, hối tiếc và tất cả những câu hỏi anh không hỏi đã được đóng gói cất đi rất lâu sau khi anh tin rằng anh đã tự bắt buộc được mình hiện hữu đúng vào lúc và ở nơi anh muốn định cư – con nhỏ dời chỗ anh. Từ phòng này qua phòng khác. Như một con búp bê vải.

Ngồi trên hàng hiên của nhà thờ tiệm-đồ-khô, ngà say và không có chuyện gì để làm, anh có thể nghĩ những ý nghĩ này. Những ý nghĩ chậm, băn khoăn, cắt sâu nhưng không chạm đến điều gì chắc chắn để một tên đàn ông có thể bám víu vào. Vì thế anh giữ yên cổ tay mình. Đi qua cuộc đời người đàn bà ấy, vào trong cuộc đời ấy và để cuộc đời ấy vào trong anh, đã đẩy anh đến sự suy sụp này. Ý muốn sống trọn đời với một người đàn bà là mới mẻ, và mất đi cảm xúc ấy, anh muốn khóc và nghĩ những ý nghĩ sâu sắc nhưng viển vông. Khi anh đang trôi dạt, chỉ nghĩ đến bữa ăn kế tiếp và giấc ngủ đêm, khi mọi thứ được gói kín trong ngực anh, anh không có cảm giác thất bại, hoặc nghĩ đến những chuyện không có kết quả. Bất cứ chuyện gì nếu có kết quả đã có kết quả. Bây giờ anh tự hỏi Chuyện gì đã hỏng, và bắt đầu từ Kế Hoạch, moi thứ đều hỏng. Đấy là một kế hoạch tốt. Được tính toán từng chi tiết, loại từ tất cả khả năng sai lạc.

Sixo đang buộc mấy con ngựa, nói tiếng Anh trở lại và kể cho Halle nghe điều Người-đàn-bà-ba-mươi-dặm nói cho nó nghe. Rằng bảy người da đen ở chỗ cô đang nhập bọn với hai người nữa để đi về miền Bắc. Rằng trước đây hai người kia đã làm như thế và biết đường. Rằng một trong hai người, một người đàn bà sẽ đợi họ trong ruộng ngô khi ngô mọc cao – bà sẽ đợi một đêm và nửa ngày hôm sau, và nếu họ đến bà sẽ đưa họ đến đoàn xe, nơi những người khác đang ẩn trốn. Rằng bà sẽ ra hiệu bằng tiếng lách cách. Sixo sẽ đi, người tình của nó sẽ đi, và Halle sẽ mang cả gia đình anh đi. Hai Paul nói họ cần thời gian suy nghĩ. Thời gian để tự hỏi họ sẽ về đâu, sống như thế nào, làm việc gì, ai sẽ nhận họ, họ có nên thử đến chỗ Paul F, họ nhớ ông chủ của Paul F ở đâu đó có tên gọi là “dấu vết”? Họ trò chuyện hết một tối rồi mới quyết định được.

Giờ đây họ chỉ còn phải đợi đến mùa xuân, cho đến khi ngô mọc cao hết mức và trăng tròn hết mức.

Và tính toán kế hoạch. Họ nên đi buổi tối để bắt đầu sớm hơn, hay đi lúc bình minh để có thể thấy đường rõ hơn? Sixo nhổ toẹt vào đề nghị ấy. Đêm cho họ nhiều thời gian hơn cộng thêm sự bảo vệ của bóng tối. Nó không hỏi họ có sợ không. Nó xoay sở đi thử vài lần đến ruộng ngô ban đêm, chôn mấy tấm chăn và hai con dao gần dòng suối. Sethe có bơi nổi qua suối không? Họ hỏi nó. Khi ngô mọc cao, nó nói, dòng suối sẽ cạn. Không có thức ăn để nấu, nhưng Sethe nói chị sẽ lấy một hũ mật mía hay nước đường đen, và ít bánh mì khi cần đến lúc đi. Chị chỉ muốn biết chắc là có mấy tấm chăn ở chỗ đã định, vì họ sẽ cần chăn để buộc đứa bé vào lưng chị và đắp trong cuộc hành trình. Không có quần áo nào khác ngoài thứ họ đang mặc. Và dĩ nhiên không có giày. Hai con dao sẽ giúp họ ăn, nhưng họ cũng chôn dây thừng và một cái nồi nữa. Đấy là một kế hoạch tốt. Họ theo dõi và học thuộc lòng thời khóa biểu của thầy giáo và của học trò hắn: khi nào bọn họ cần chuyện vì và cần ở đâu, mất bao lâu để làm xong chuyện ấy. Bà Garner ngủ say hết buổi sáng vì ban đêm bà trăn trở. Có ngày học trò và thầy giáo học cho đến lúc điểm tâm. Mỗi tuần một ngày bọn họ bỏ điểm tâm và đi mười dặm đến nhà thờ, lúc về bọn họ sẽ muốn có một bữa ăn tối thịnh soạn. Sau bữa ăn tối thầy giáo viết vào cuốn sổ của hắn, bọn học trò lau dọn, sửa hay mài dụng cụ. Công việc của Sethe bất định nhất vì chị luôn phải túc trực bên bà Garner, luôn cả ban đêm khi bà đau đớn quá hay yếu đuối quá hay thật ra là cô đơn quá. Vì thế, Sixo và hai anh em Paul sẽ đi sau bữa ăn tối và đợi người Đàn-bà-ba-mươi-dặm ở trong lòng suối cạn.

Halle sẽ mang Sethe và ba đứa nhỏ đến trước bình minh – trước khi mặt trời lên, trước khi lũ gà và bò sữa cần được chăm lo để đến lúc đáng lẽ bếp lò phải tỏa khói, họ sẽ đến gần hay đã đến dòng suối nơi những người khác đã có mặt. Như vậy, nếu bà Garner cần đến Sethe trong đêm và gọi chị, Sethe sẽ có ở đấy để đáp lời. Họ chỉ phải đợi qua mùa xuân.

Thế nhưng. Mùa xuân Sethe mang thai và đến tháng Tám chị đã quá nặng nề, chị có thể không theo kịp những người đàn ông. họ có thể cõng mấy đứa bé nhưng không cõng được chị.

Thế nhưng láng giềng không được Garner mời chào khi ông còn sống bây giờ tha hồ thăm viếng Tổ Ấm và có thể xuất hiện ở đúng chỗ nhưng không đúng lúc.

Thế nhưng con của Sethe không được chơi trong bếp nữa nên chị phải chạy đi chạy về giữa nhà chính và khu nhà dành cho gia nhân – bồn chồn và bất lực ráng trông chừng chúng. Hai đứa con trai còn nhỏ không làm được việc của người lớn và con bé gái mới chín tháng tuổi. Không có bà Garner giúp, công việc của chị tăng lên và thầy giáo cũng đòi hỏi nhiều hơn.

Thế nhưng sau cuộc nói chuyện về con lợn sữa, ban đêm Sixo bị cột chung với gia súc, và mọi thứ: thùng, vòng rào, chuồng ngựa, chuồng gà, phòng yên cương và cửa kho rơm đều bị khóa lại. Không có chỗ để chạy vào ẩn mình hay hội họp. Bây giờ Sixo ngậm một cái đinh trong miệng để cởi dây thừng khi nó cần.

Thế nhưng Halle bị ra lệnh phải làm thêm việc tại Tổ Ấm và không được đi đâu trừ những chỗ thầy giáo sai anh đi. Chỉ có Sixo đã trốn đi cặp người tình nhiều năm. Và Halle, được mướn ra ngoài nhiều năm, biết ở ngoài Tổ Ấm có cái gì và làm sao đến đấy.

Đấy là một kế hoạch tốt. Có thể thi hành kế hoạch ấy đúng cách dưới mũi bọn học trò rình rập và thầy giáo của chúng.

Thế nhưng. Họ phải thay đổi kế hoạch – chỉ một chút thôi. Đầu tiên họ đổi cách đi. Họ học thuộc lòng chỉ dẫn của Halle. Vì Sixo cần thời gian để tự cởi trói, nó sẽ mở cửa mà không làm động lũ ngựa và đi sau, nhập bọn với họ cùng với Người-đàn-bà-ba-mươi-dặm ở dòng suối. Cả bốn người sẽ đến thẳng ruộng ngô. Halle, người bây giờ cần nhiều thời gian hơn vì Sethe, quyết định mang chị và bọn trẻ đi vào ban đêm, không đợi đến lúc rạng sáng. Họ sẽ đến thẳng ruộng ngô và không hội họp ở dòng suối. Ngô đã cao trên vai họ – nó sẽ không cao hơn nữa.Trăng đang tròn. Họ gần như không thể hái, hay cuốc, hay nhổ, hay nhặt, hay mang vác vì họ đang lắng nghe chờ tiếng lách cách không phải là tiếng chim hay tiếng rắn. Rồi giữa một buổi sáng, họ nghe thấy tiếng lách cách. Hoặc là Halle nghe thấy và bắt đầu ca cho mọi người nghe: “Im, im. Có ai gọi tên tôi, im im. Có ai gọi tên tôi. Ôi Chúa, ôi Chúa, tôi sẽ làm gì đây?”(*)

(*)Thánh ca của người da đen.

Halle rời cánh đồng vào bờ nghỉ ăn tối. Anh phải đi. Anh phải báo cho Sethe biết anh đã nghe thấy tín hiệu. Chị đã ở trong phòng bà Garner hai đêm liền và anh phải cho chị biết đêm nay chị không thể ở đó. Hai anh em Paul nhìn anh đi.

Dưới tàng cây Anh Em nơi họ đang ăn bánh ngô, họ nhìn anh bước đi. Bánh ngô non. Họ liếm mồ hôi trên môi để cho bánh thêm vị mặn. Thầy giáo và tụi học trò đã về nhà và đang ăn bữa tối. Halle bước đi nhanh. Anh không hát.

Không ai biết chuyện gì đã xảy ra. Trừ chỗ thùng đánh bơ, đấy là lần cuối có người nhìn thấy Halle. Paul D biết là Halle biến mất, không hề nói gì với Sethe và lần kế tiếp người ta nhìn thấy anh, anh đang ngồi chồm hổm, người dính đầy bơ.

Có thể khi anh đến cổng và xin gặp Sethe, thầy giáo nghe giọng anh thoáng chút lo lắng – chút lo lắng sẽ làm hắn cầm lấy khẩu súng lúc nào cũng sẵn sàng bắn. Có thể Halle đã phạm sai lầm bằng cách nói “vợ tôi” theo cách nào đấy làm mắt thầy giáo lóe lên. Sethe nói rằng chị nghe thấy tiếng súng, nhưng không nhìn ra ngoài cửa sổ phòng ngủ của bà Garner. Nhưng ngày hôm ấy Halle không bị giết hoặc bị thương vì Paul D nhìn thấy anh sau đấy, sau khi Sethe chạy trốn mà không có ai giúp, sau khi Sixo cười và anh của Paul D biến mất. Anh nhìn thấy Halle người dính bơ và mắt trơ như mắt cá. Có thể thầy giáo đã bắn theo Halle, bắn vào chân anh, để nhắc anh đừng đi khỏi Tổ Ấm. Có thể Halle vào trong kho rơm để trốn và bị khóa cùng gia súc của thầy giáo. Bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra, Halle đã biến mất và mọi người phải tự lo.

Sau bữa tối Paul A lại đi vác gỗ. Họ hẹn gặp ở nhà để ăn tối. Paul A không hề xuất hiện. Paul D đi đến dòng suối đúng giờ, tin tưởng, hy vọng rằng Paul A đã đi trước, chắc chắn rằng thầy giáo đã biết được điều gì đấy. Paul D đến dòng suối và suối đã cạn như Sixo hứa. Anh ở đấy với Người-đàn-bà-ba-mươi-dặm, đợi Sixo và Paul A. Chỉ có Sixo đến, cổ tay chảy máu, lưỡi liếm môi như một ngọn lửa xém.

“Mày có thấy Paul A không?”

“Không.”

“Halle?”

“Không.”

“Không có dấu hiệu gì của họ à?”

“Không. Khu nhà ở không có ai trừ bọn trẻ.”

Còn Sethe?”

“Con cô ấy đang ngủ. Chắc cô ấy vẫn còn ở đó.”

“Không có Paul A, tao không đi được.”

“Tao không thể giúp mày.”

“Tao có nên trở lại tìm họ không?”

“Tao không thể giúp mày.”

“Mày nghĩ sao?”

“Tao nghĩ họ đi thẳng đến ruộng ngô.”

Lúc ấy Sixo quay sang người đàn bà và họ ôm chặt lấy nhau và thì thầm. Bấy giờ cô ta như được thắp sáng lên với một tia sáng từ bên trong. Trước đấy, khi cô ta quỳ với Paul D trên lớp sỏi trong dòng suối cô ta chẳng là gì cả, chỉ một hình hài đang thở nhè nhẹ trong bóng tối.

Sixo sắp sửa bò ra để kiếm mấy con dao nó đã chôn lúc trước. Nó nghe thấy tiếng động. Nó không nghe gì hết. Quên mấy con dao đi. Ngay bây giờ. Ba người leo lên bờ.

Đi về phía họ là thầy giáo, học trò của hắn và bốn người da trắng khác với những ngọn đèn. Sixo đẩy người-đàn-bà-ba-mươi-dặm và cô chạy dọc theo lòng suối. Paul D và Sixo chạy theo hướng ngược lại về phía khu rừng. Cả hai bị bao vây và trói lại.

Lúc ấy không khí ngọt ngào. Thơm hương những thứ ong mật thích. Bị trói lại như một con la, Paul D cảm thấy cỏ đẫm sương và mời mọc quá. Anh đang nghĩ về chuyện ấy và Paul A không biết đang ở đâu thì Sixo quay lại và chụp lấy nòng của khẩu súng trường gần nhất. Nó bắt đầu hát. Hai tên khác xô Paul D và trói anh vào một thân cây. Thầy giáo nói “Để cho nó sống. Để cho nó sống. Tao muốn nó còn sống.” Sixo vung tay và đánh gãy sườn một tên, nhưng tay nó bị trói nên nó không thể xoay trở khẩu súng.

Bọn da trắng chỉ cần phải đợi. Có lẽ đợi cho bài hát của nó kết thúc? Năm khẩu súng chĩa vào nó trong khi bọn chúng lắng nghe. Paul D không nhìn thấy được bọn chúng khi bọn chúng bước ra xa ánh đèn. Cuối cùng một tên dùng súng đánh vào đầu Sixo, và khi nó tỉnh lại, trước mặt nó là ngọn lửa gỗ mại châu, và nó bị cột ngang eo vào một thân cây. Thầy giáo đã đổi ý: “không dạy được thằng này.” Chắc hẳn bài hát đã thuyết phục hắn. Ngọn lửa lụi dần và bọn da trắng bực mình vì chúng không sẵn sàng đối phó với tình trạng khẩn cấp này. Bọn chúng đến để bắt người, không phải để giết người. Bọn chúng chỉ có đủ lửa nấu cháo ngô. Củi khô khó kiếm, và cỏ thì ướt sương. Trong ánh lửa nấu cháo ngô, Sixo đứng thẳng dậy. Nó đã hát xong. Nó cười. Giọng rúc rích như giọng hai đứa con trai của Sethe cười khi chúng lộn nhào trong rơm hay giỡn tung tóe nước mưa. Chân nó đang bị nấu, vải quần của nó bốc khói. Nó cười. Có điều gì đấy buồn cười. Paul D đang đoán điều ấy là gì khi nó ngưng cười và gọi, “Bảy-không! Bảy-không!”

Ngọn lửa bướng bỉnh, nhiều khói. Bọn chúng bắn nó để nó im miệng. Phải làm như thế. Bị trói gô lại, bước qua những thứ tỏa hương thơm mà ong mật thích, Paul D nghe bọn đàn ông nói chuyện và lần đầu tiên biết giá của mình. Anh vẫn biết, hoặc tin rằng anh biết trị giá của mình – như một người làm công, một người lao động tạo ra lợi nhuận cho nông trại – nhưng bây giờ anh khám phá ra giá trị của mình, tức là giá tiền. Giá tiền đô la cho sức nặng, chiều cao, trái tim, bộ óc, dương vật, và tương lai của anh. Ngay sau khi bọn da trắng đến chỗ buộc ngựa và leo lên ngựa, bọn chúng lập tức bình tĩnh hơn, nói chuyện với nhau về khó khăn bọn chúng phải đương đầu. Những vấn đề. Những tiếng nói nhắc thầy giáo nhớ rằng mấy tên nô lệ này đã bị Garner chiều đến hư. Có luật cấm điều ông đã làm: để lũ mọi đen đi làm mướn trong thời giờ rảnh rỗi của chúng để tự chuộc mình ra khỏi vòng nô lệ. Thậm chí ông còn cho tụi nó mang súng nữa! Và lẽ ra ông phải cho lũ mọi đen ăn nằm với nhau để có thêm nô lệ. Không đời nào! Ông dự định cho chúng lấy nhau. Chuyện lạ chưa từng thấy! Thầy giáo thở dài, và nói, nào phải đâu hắn không biết? Hắn đã đến để chỉnh đốn lại nông trại này. Bây giờ nông trại có nguy cơ suy sụp còn hơn lúc Garner mất, vì nó đã mất ít nhất hai đứa da đen. Và có thể là ba đứa vì hắn không chắc họ sẽ tìm ra đứa tên là Halle. Chị dâu của hắn yếu quá không giúp gì được và bây giờ hắn lại phải lo chuyện nô lệ chạy tán loạn thì thật là trời đánh. Hắn sẽ bán đứa này đây lấy 900 đô la nếu được, và cột chặt đứa đang mang thai, con của nó và đứa kia, nếu hắn tìm ra được đứa kia. Với số tiền bán đứa này hắn có thể mua hai đứa nhỏ, mười hai hay mười lăm tuổi. Và có thể với đứa đang mang thai, ba đứa nhóc da đen của nó và đứa nhỏ trong bụng, hắn và hai thằng cháu trai của hắn sẽ có bảy đứa mọi đen và Tổ Ấm sẽ đáng để cho hắn phải chịu phiền phức.

“Lillian liệu có qua khỏi không?”

“Không chắc. Không chắc.”

“Anh lấy em chồng của bà ấy phải không?”

“Phải.”

“Vợ anh cũng đau yếu?”

“Cũng hơi yếu. Bị sốt rồi chết.”

“Ở vùng này anh không cần phải chịu cảnh góa vợ.”

“Ngay bây giờ tôi chỉ nghĩ đến Tổ Ấm.”

“Cũng khó mà trách anh. Chỗ đất đó tốt.”

Bọn chúng đặt gông ba càng vào cổ anh để anh không nằm xuống được và xiềng hai cổ chân anh lại với nhau. Con số anh nghe bằng tai bây giờ ở trong đầu anh. Hai. Hai? Mất hai đứa da đen? Paul D nghĩ trái tim anh đang nhảy dựng lên. Họ đang đi tìm Halle, không phải Paul A. Họ chắc đã tìm thấy Paul A và nếu bọn da trắng tìm thấy ai thì người ấy chắc chắn đã gặp chuyện chẳng lành.

Thầy giáo nhìn anh rất lâu trước khi hắn đóng cửa căn nhà gỗ. Hắn nhìn thật kỹ. Paul D không nhìn lại. Trời đang mưa lâm râm. Cơn mưa tháng Tám trêu cợt, sẽ không kéo dài bao lâu. Anh nghĩ đáng lẽ anh phải hát cùng với Sixo. Hát to lên, hát câu gì lớn và cuồn cuộn để hợp với điệu hát của Sixo, nhưng lời hát làm anh khó chịu – anh không hiểu lời hát. Mặc dù lời hát chắc không phải là quan trọng, và anh hiểu âm thanh: nỗi căm ghét buông thả đến mức nó như điệu múa juba.

Làn mưa nhẹ và ấm rơi rồi ngưng rơi rồi ngưng. Anh nghĩ anh nghe thấy tiếng nức nở vọng đến từ cửa sổ phòng bà Garner, nhưng tiếng động ấy có thể là bất cứ cái gì, bất cứ ai, thậm chí một con mèo cái gọi đực. Mệt mỏi vì phải giữ cho đầu thẳng, anh tựa cằm lên cái gông và suy đoán làm cách nào cà nhắc đến bên tẩm vỉ của bếp lò, nấu chút nước và thảy vào đấy một nắm bột ngô. Anh đang làm thế thì Sethe bước vào, đẫm nước mưa và bụng kềnh càng nói rằng chị sẽ chạy trốn. Chị vừa về đến nơi sau khi mang các con chị ra ruộng ngô. Bọn da trắng không có ở đấy. Chị không tìm thấy Halle. Ai bị bắt? Sixo có thoát không? Còn Paul A?

Anh nói với chị những gì anh biết: Sixo chết, Người-đàn-bà-ba-mươi-dặm chạy đi, và anh không biết chuyện gì xảy ra với Halle hay Paul A.

“Anh ấy ở đâu mới được chứ?” Chị hỏi.

Paul D nhún vai vì anh không lắc được đầu.

“Anh nhìn thấy Sixo chết? Anh có chắc không?”

“Chắc.”

“Khi chuyện xảy ra anh ấy có tỉnh không? Anh ấy có biết không?”

“Tỉnh. Tỉnh và cười.”

“Sixo cười?”

“Em phải nghe thì em mới tin được, Sethe.”

Áo của Sethe bốc hơi trước ngọn lửa nhỏ anh dùng để nấu nước. Di chuyển trong lúc bị đóng gông hai cổ chân không phải là dễ, và anh xấu hổ vì cái vòng cổ. Ngượng ngùng nên anh tránh mắt chị, nhưng khi anh không tránh né, anh chỉ thấy màu đen trong mắt chị – không có lòng trắng. Chị nói chị sẽ đi và anh nghĩ chị sẽ không đi được đến cổng nhưng anh không ngăn cản chị. Anh biết sẽ không bao giờ gặp chị lần nữa, và ngay lúc đó trái tim anh ngừng đập.

Bọn học trò chắc đã mang chị đến kho lúa để vọc chơi ngay sau đó, và khi chị kể lại với bà Garner, chúng lấy chiếc roi da bò xuống. Có ai trên trần gian hay địa ngục nghĩ rằng chị sẽ vẫn chạy trốn? Chắc bọn chúng tin rằng, với cái bụng và cái lưng chị như thế, chị sẽ không đi đâu hết. Anh không ngạc nhiên khi nghe thấy chúng lùng tìm chị dưới Cincinnati, vì, nghĩ cho cùng giá của chị cao hơn giá của anh, thứ của cải sinh sôi không cần tốn kém.

Nhớ lại giá của anh cho đến từng xu, mà thầy giáo có thể thu được khi bán anh, anh tự hỏi giá của Sethe sẽ là bao nhiêu. Giá của Baby Suggs? Lúc trước Halle còn nợ bao nhiêu tiền ngoài sức lao động của anh? Bà Garner bán Paul F được bao nhiêu? Hơn chín trăm đô la? Hơn bao nhiêu? Mười đô la? Hai mươi? Thầy giáo chắc biết. Hắn biết giá của mọi thứ. Vì thế nên giọng hắn buồn bã khi hắn tuyên bố là không dạy Sixo được. Ai khờ đến nỗi đi mua một đứa mọi đen ca hát đang cầm một khẩu súng. Đang hét Bảy-không! Bảy-không!

Vì người-đàn-bà-ba-mươi-dặm của nó đã thoát được với hạt giống đang nở hoa của nó. Giọng nó cười lạ làm sao. Rúc rích và khoái chí đến nỗi nó làm lửa tắt. Anh nghĩ đến tiếng cười của Sixo, chứ không phải cái hàm thiếc trong miệng khi bọn chúng cột anh vào xe bò. Rồi anh nhìn thấy Halle, rồi anh nhìn thấy con gà trống đang mỉm cười như thể muốn nói “Khổ sở của mày chưa thấm vào đâu. Làm sao một con gà trống biết về Alfred, Georgia?

Trước
image
Chương 25
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!