Chân trần và sáp hoa cúc
Cởi giày tôi, cởi mũ tôi
Chân trần và sáp hoa cúc
Trả giày tôi, trả mũ tôi
Tựa đầu tôi lên bao khoai tây
Sau lưng tôi quỷ len lén đến
Máy hơi nước rền rỉ cô đơn
Yêu nàng cho đến mù câm
Mù câm, mù câm
Mất trí vì cô nàng Tổ Ấm
Anh đến ngược lại lối anh đã đến. Đầu tiên là nhà lạnh, kho chứa, rồi nhà bếp trước khi anh đến mấy cái giường. Con Here Boy, yếu ớt và rụng lông từng mảng, ngủ bên ống bơm nước. Vì thế Paul D biết Beloved đã đi thật rồi. Biến mất, như vài người nói, nổ tung ngay trước mắt họ. Ella không chắc lắm. “Có thể như thế, có thể không” chị nói, “Có thể đang trốn trong rừng đợi một cơ hội khác.” Nhưng khi Paul D nhìn thấy con chó già, chắc đã phải đến mười tám tuổi, anh biết chắc Beloved không còn ở 124 nữa. Tuy vậy, khi anh mở cửa phòng lạnh anh gần như chờ đợi nghe thấy tiếng cô nói. “Chạm vào tôi. Chạm vào tôi. Chạm vào bên trong tôi và gọi tên tôi.”
Đây là tấm nệm rơm, phía trên có trải mấy tờ báo cũ bị chuột gặm bên lề. Lon mỡ. Mấy bao khoai tây nữa, nhưng bây giờ trống không, nằm chất đống trên sàn. Trong ánh sáng ban ngày anh không thể tưởng tượng được căn phòng như thế nào trong bóng tối với ánh trăng lọt qua những kẽ nứt. Và cả nỗi ham muốn đã nhận chìm anh ở đấy và bắt anh phải vật vã ngoi lên, ngoi lên và vào trong cô ta như thể cô ta là không khí trong lành trên mặt biển. Thậm chí chuyện làm tình với cô ta không có gì thích thú. Một thúc đẩy tồn tại ngu độn thì đúng hơn. Mỗi lần cô đến, kéo váy lên, cơn đói cuộc sống khiến anh choáng ngợp và anh không kìm chế nó được cũng như anh không kìm chế được hô hấp của mình. Và sau đó, vào bờ và thở dốc, giữa nỗi ghê tởm và xấu hổ của riêng mình, anh cũng biết ơn vì đã được đưa đến một chốn biển sâu nào đấy có lần từng là nơi chốn của anh.
Ánh sáng ban ngày lọt vào phòng làm ký ức tan đi, biến nó thành những hạt bụi lơ lửng trong ánh sáng. Paul D đóng cửa lại. Anh nhìn về phía căn nhà và, ngạc nhiên thay, nó không nhìn lại anh. Trút được gánh nặng rồi. 124 chỉ là một căn nhà dãi dầu mưa nắng cần được sửa chữa. Yên lặng, như Stamp Paid nói.
“Trước kia, xung quanh đấy có tiếng nói. Bây giờ nó yên lặng. Stamp nói “Tôi đi qua vài lần và tôi không nghe thấy gì. Tôi đoán nó bị trị rồi, vì ông Bodwin nói ông sẽ bán nó càng sớm càng tốt.”
“Đấy là tên của người cô ấy đã cố đâm? Người ấy phải không?”
“Ờ. Em ông nói nó toàn gây chuyện rắc rối. Bảo Janey là bà sẽ tống nó đi.”
“Còn ông ta?” Paul D hỏi.
“Janey nói ông không muốn bán nhưng sẽ không cản.”
“Họ nghĩ ai sẽ muốn căn nhà ngoài này? Người có tiền đâu muốn ở ngoài này.”
“Tôi chịu thua,” Stamp trả lời. “Chắc cũng lâu lắm ông mới bán được.”
“Ông ta không định báo cô ấy với cảnh sát?”
“Hình như là không. Janey nói ông chỉ muốn biết ai là người phụ nữ da đen trần truồng đứng trên hàng hiên. Ông nhìn cô ta kỹ quá nên ông không để ý Sethe đang định làm gì. Ông chỉ thấy vài người phụ nữ da đen đánh nhau. Janey nói ông nghĩ Sethe nhắm vào một trong mấy người đó.”
“Janey có nói gì khác với ông ta không?”
“Không. Cô ấy nói cô mừng là ông chủ cô không chết. Nếu Ella không đấm Sethe, cô nói cô sẽ làm. Cô sợ gần chết, chỉ sợ Sethe sẽ giết ông chủ cô. Cô và Denver cả hai sẽ phải đi tìm việc.”
“Janey nói với ông ta người đàn bà trần truồng là ai?”
“Nói với ông cô không thấy người nào.”
“Ông tin là họ thấy?”
“Ôi họ thấy cái gì đó. Dù sao thì tôi tin Ella, và cô ấy nói cô nhìn vào mắt nó. Nó đang đứng cạnh Sethe. Nhưng theo cách họ tả lại, dường như nó không phải con nhỏ tôi nhìn thấy trong nhà. Con nhỏ tôi nhìn thấy người gầy. Đứa này béo. Cô ấy nói họ đang nắm tay và Sethe trông như một cô bé bên cạnh nó.”
“Một cô bé với một cái dùi nước đá. Cô ấy có đến gần ông ta lắm không?”
“Họ nói là Sethe đến gần sát ông. Trước khi Denver và họ chụp lấy Sethe và Ella đấm vào hàm cô ấy.”
“Ông ta phải biết Sethe muốn hại ông ta. Ông ta phải biết.”
“Có thể. Tôi không biết. Nếu ông ấy có nghĩ như vậy, tôi đoán ông quyết định không tin, ông ấy là như thế. Ông là người sẽ không bao giờ từ bỏ chúng ta. Vững như đá. Tôi nói anh nghe, nếu Sethe đâm được ông ấy, đó sẽ là chuyện xấu nhất trên đời đối với tụi mình. Anh biết ông là người chủ chốt đã giúp cho Sethe không bị treo cổ, phải không.”
“Ờ Trời đánh. Cô nàng đó điên. Điên.”
“Ờ, mà ai chẳng điên chứ?”
Rồi họ cười. Thoạt tiên là tiếng cười khàn khe khẽ rồi lớn hơn và lớn hơn nữa cho đến khi Stamp lấy khăn tay trong túi ra và lau mắt trong khi Paul D dụi cổ tay vào mắt mình. Cảnh tượng cả hai không mục kích diễn ra trước mắt họ, và sự nghiêm trọng cũng như hỗn loạn của cảnh tượng ấy khiến họ rung lên vì cười.
“Mỗi lần có người da trắng đến cửa thì cô ấy phải giết ai đó sao?”
“Làm sao cô ấy biết được là có thể ông ta chỉ đến lấy tiền thuê nhà.”
“Cũng may là họ không đưa thư ra ngoài đó.”
“Sẽ không ai nhận được thư.”
“Trừ người đưa thư.”
“Đấy sẽ là lần đưa tin cực kỳ rủi ro.”
“Và là cuối cùng của hắn.”
Khi họ cười thỏa thích, họ hít sâu vào và lắc đầu.
“Và ông ta vẫn để Denver qua đêm ở nhà ông ta hả? Ha!”
“Thôi đi. Ê! Để Denver yên, Paul D. Tôi thương nó lắm. Tôi hãnh diện vì con bé ấy. Nó là người đầu tiên vật mẹ nó xuống. Trước khi bất cứ ai biết chuyện quỷ quái gì đang xảy ra.”
“Có thể nói là nó đã cứu mạng ông ta.”
“Có thể. Có thể,” Stamp nói, chợt nghĩ đến cái nhảy, cánh tay ông vung lên và cái vồ chộp khi ông cứu đứa bé tóc quăn khỏi bị vỡ sọ trong gang tấc. “Tôi hãnh diện vì nó. Nó đã lớn lên thành người. Thành người.”
Đúng thế. Paul D gặp nó sáng hôm sau trên đường anh đi làm và nó đi về. Gầy hơn đôi mắt điềm đạm, nó nhìn giống Halle hơn bao giờ hết.
Nó mỉm cười trước. “Chúc buổi sáng tốt lành bác D.”
“Đến bây giờ buổi sáng mới tốt lành đây.”
Nụ cười của nó, không còn là nụ cười nhạo báng anh nhớ, trông ân cần và nhiều nét giống miệng của Sethe. Paul D chạm tay vào mũ. “Cháu thế nào?”
“Cháu không muốn than phiền, chẳng ích lợi gì.”
“Cháu đang về nhà?”
Nó nói không. Nó nghe rằng có việc làm buổi chiều ở xưởng may áo sơ mi. Nó hy vọng là với việc làm ấy và việc làm ban đêm ở nhà Bodwin, nó có thể để dành và giúp mẹ nó nữa. Khi anh hỏi ở nhà Bodwin nó có được đối xử đàng hoàng không; nó nói còn tốt hơn đàng hoàng nữa. Cô Bodwin dạy nó thứ này thứ kia. Anh hỏi thứ gì và nó cười và nói chuyện sách vở. “Bà nói cháu có thể đến Oberlin(*) học. Bà đang dùng cháu làm thí nghiệm. Và anh không nói, “Coi chừng. Coi chừng. Trên thế gian không có gì nguy hiểm hơn thầy giáo da trắng.” Thay vì thế anh gật đầu và hỏi câu anh muốn hỏi.
(*)Oberlin: Trường đai oc đầu tiên ở Mỹ nhận học sinh da trắng lẫn da đen.
“Mẹ cháu khỏe không?”
“Không.” Denver nói. “Không. Không, không khỏe chút nào.”
“Cháu nghĩ xem bác có nên ghé thăm không? Bà có chịu tiếp bác không?”
“Cháu không biết” Denver nói. Cháu nghĩ cháu đã mất mẹ rồi, bác Paul D ạ.”
Họ cùng im lặng một lúc và rồi anh nói, “Ờ, con nhỏ đó, cháu biết đấy Beloved?”
“Dạ?”
“Cháu nghĩ cô ta chắc chắn là chị cháu?”
Denver nhìn xuống đôi giày mình. “Có lúc cháu nghĩ thế. Có lúc cháu nghĩ chị ấy là chị – còn hơn cả chị nữa.”
Nó nghịch với chiếc áo đang mặc, chùi một vết vì đấy. Đột nhiên nó nhìn vào mắt anh. “Nhưng ai biết điều ấy hơn là bác, bác Paul D? Ýcháu là chắc chắn bác đã biết chị ấy.”
Anh liếm môi. “Nếu cháu muốn biết ý kiến của bác…”
“Cháu không muốn, nó nói. “Cháu có ý kiến của cháu.”
“Cháu lớn rồi.” Anh nói.
“Dạ phải.”
“Chúc cháu may mắn với việc làm.”
“Cám ơn bác. Và bác à, bác không cần phải tránh không đến nhà cháu, nhưng hãy cẩn thận khi bác nói chuyện với mẹ cháu, nghe bác?”
“Đừng lo.” Anh nói và rời nó lúc ấy, hay đúng hơn nó rời anh vì một chàng trai đang chạy về hướng nó, nói, “Này, cô Denver. Đợi đã.” Nó quay về phía anh chàng, khuôn mặt nó bừng sáng như thể có ai vừa bật vòi ga lên.
Anh không muốn rời đi vì anh muốn nói chuyện nhiều hơn, để hiểu những câu chuyện anh đã nghe bấy lâu: ông da trắng đến đưa Denver đi làm và Sethe đâm ông ta. Hồn ma đứa bé trở về thành quỷ và sai Sethe đi hại người đã giúp chị khỏi bị treo cổ. Mọi người đồng ý ở một điểm: đầu tiên họ thấy nó rồi họ không thấy nó. Khi họ đẩy được Sethe xuống đất và lấy được cái dùi nước đá ra khỏi tay chị, nó đã biến mất. Sau này, một thằng bé loan ra rằng lúc nó đang tìm mồi câu phía sau 124 gần dòng nước, nó thấy một người đàn bà lõa lồ, tóc là những con cá, đang chạy băng qua rừng.
Thật ra, Paul D không cần biết Nó ra đi thế nào và thậm chí tại sao. Anh muốn biết anh ra đi thế nào và tại sao. Khi anh nhìn mình qua đôi mắt của Garner, anh thấy một điều. Qua mắt của Sixo, một điều khác. Một người làm anh thấy mình đúng. Người kia làm anh xấu hổ. Như lần anh làm việc cho cả hai phe của Cuộc Chiến. Chạy trốn khỏi ngân hàng Northpoint và Công ty Đường sắt để gia nhập Trung đoàn Da màu thứ 44 ở Tennessee, anh tưởng mình đã đến nơi, chỉ để khám phá ra rằng anh đã đến một trung đoàn da đen khác đang thành lập dưới tay một viên chỉ huy ở New Jersey. Anh ở lại bốn tuần. Trung đoàn rã đám trước khi nó bắt đầu vì câu hỏi có nên cho lính mang vũ khí hay không. Không, họ quyết định như thế, và viên chỉ huy da trắng đã nghĩ xem anh ta phải ra lệnh cho họ làm cái gì thay vì giết những người da trắng khác. Vài ngàn trong số mười ngàn ở lại để dọn dẹp, khuân vác và xây dựng các thứ, những người khác trôi dạt đến một trung đoàn khác; đa số bị bỏ rơi, để mặc họ xoay sở với tiền công là cay đắng. Khi anh đang cố quyết định xem phải làm gì, một nhân viên của ngân hàng Northpoint bắt kịp anh và dẫn anh về Delaware, nơi anh làm việc như nô lệ một năm. Rồi Northpoint lấy ba trăm đô la để đổi lấy công lao động của anh ở Alabama, anh làm việc cho quân Phiến loạn ở đấy, đầu tiên là phân loại người chết và rồi nấu chảy sắt. Khi anh và nhóm của anh lục lọi bãi chiến trường, việc của họ là kéo quân miền Nam bị thương ra khỏi quân miền Nam đã chết. Cẩn thận, họ bảo, cẩn thận. Người da đen lẫn da trắng bịt mặt lên đến mắt, dùng đèn lần lối qua đồng cỏ, lắng nghe trong bóng tối tiếng rên của sự sống giữa sự im lặng thờ ơ của người chết. Đa số là trai trẻ, một số là con nít, và anh xấu hổ vì cảm thấy thương hại cho những kẻ anh tưởng tượng có thể là con của bọn lính gác ở Alfred, Georia.
Năm lần thử anh không có được một lần thành công thực sự. Mỗi lần anh trốn (từ Tổ Ấm, từ Brandywine, từ Alfred Georia, từ Wilminton, từ Northpoint) đều đã hỏng. Một mình, không cải trang, làn da lồ lộ, tóc dễ nhớ và không có người da trắng nào bảo vệ, anh không bao giờ tránh được không bị bắt. Lần lâu nhất là khi anh chạy với bọn tù, ở lại với người Cherokee, theo lời khuyên của họ và ẩn náu nơi nhà người thợ dệt ở Wilmington, Delaware: ba năm. Trong tất cả những lần chạy trốn ấy anh không thể không kinh ngạc vì vẻ đẹp của mảnh đất không thuộc về anh. Anh trốn trong lòng của nó, lần mò đất của nó tìm thức ăn, bám vào bờ của nó để liếm nước và cố không yêu nó. Trong những đêm khi bầu trời trong sáng trĩu nặng những vì sao của mình, anh bắt mình không yêu nó. Những nghĩa trang và những con sông vùng thấp của nó. Hoặc chỉ một căn nhà – đơn độc dưới một cây dâu dại. Có thể một con la đang bị cột và ánh nắng chiếu rất đẹp trên da nó. Thứ gì cũng có thể làm cho anh xao xuyến và anh rất cố gắng không yêu nó.
Sau vài tháng trên bãi chiến trường của Alabama, anh bị cưỡng bức lao động trong một lò đúc ở Selma cùng ba trăm người da đen bị bắt, bị cho mượn hay bị mang theo. Anh ở đấy lúc cuộc chiến kết thúc và đáng lẽ anh đã có thể dễ dàng rời Alabama khi được tuyên bố là người tự do. Đáng lẽ anh đã có thể đi bộ từ lò đúc ở Selma thẳng đến Philadelphia, theo đường chính, hoặc bằng xe lửa nếu anh muốn, hoặc bằng tàu thủy.
Nhưng chuyện không như thế. Khi anh và hai người lính da đen (bị bắt từ trung đoàn thứ 44 anh đã tìm kiếm trước kia) đi bộ từ Selma đến Mobile, họ thấy mười hai xác chết da đen trong mười tám dặm đầu tiên. Hai là phụ nữ, bốn là trẻ con. Anh nghĩ chuyến đi này chắc chắn là chuyến đi bộ của đời anh. Bọn Yankee miền Bắc đang cầm quyền để mặc cho bọn Phiến loạn miền Nam lộng hành. Họ đến vòng ngoài Mobile, nơi những người da đen đang đặt đường ray cho Liên bang, đường ray trước đó họ đã phá hủy cho phe Phiến loạn. Một người trong bọn anh, một binh nhì tên Keane đã từng ở trong Trung đoàn Massachusetts thứ 54. Anh ta bảo Paul D họ được trả lương thấp hơn lính da trắng. Anh ta bực mình vì chuyện ấy, và họ đã cùng nhau từ chối đề nghị đền bù lại số tiền lương chênh lệch của Massachusetts. Paul D thích ý tưởng được trả lương để đánh nhau đến nỗi anh nhìn chàng binh nhì với sự ngưỡng mộ và ghen tị.
Keane và bạn anh ta, trung sĩ Rossiter, trưng dụng một cái xuồng nhỏ, và cả ba người lênh đênh trên vịnh Mobile. Ở đó chàng binh nhì vẫy một chiếc tàu có súng của Liên bang, tàu này nhận cả ba người. Keane và Rossiter lên bờ ở Memphis để tìm ban chỉ huy của họ. Thuyền trưởng cho Paul D ở lại đến tận Wheeling, West Virginia Anh tự tìm đường đến New Jersey. Lúc anh đến Mobile, anh đã thấy nhiều người chết hơn sống, nhưng ở Trenton, những đám đông người còn sống, không săn đuổi hay bị săn đuổi, cho anh một chút hương vị của cuộc sống tự do, ngon lành đến nỗi anh không bao giờ quên Trong lúc anh đi dọc theo một con đường đông đúc đầy những người da trắng; những người không cần biết tại sao anh có mặt ở đấy, họ liếc mắt nhìn anh chỉ vì mớ quần áo ghê tởm anh đang mặc và mái tóc không tha thứ nổi của anh. Dù thế, không ai la hoảng lên. Rồi phép lạ xảy đến. Đứng trên một con đường trước một dãy nhà gạch, anh nghe một người da trắng gọi anh “Ê này!”, để giúp mang hai rương hàng xuống khỏi xe ngựa. Sau đó người da trắng cho anh một đồng cắc. Paul D đi lòng vòng với nó hàng giờ – không chắc nó có thể mua được cái gì (Một bộ quần áo? Một bữa ăn? Một cái nhà?) Và liệu có ai chịu bán hàng cho anh không. Cuối cùng anh thấy một người bán rau trên xe bò. Paul D chỉ một bó củ cải. Người bán rau đưa bó củ cải cho anh, lấy đồng cắc của anh và đưa cho anh nhiều đồng cắc hơn. Kinh ngạc, anh lùi lại. Nhìn quanh anh thấy không ai để ý đến sự “lầm lẫn” hay để ý đến anh. Vì vậy anh bước đi, vui vẻ nhai củ cải. Chỉ vài người đàn bà có vẻ hơi khó chịu khi họ đi ngang qua. Cuộc mua bán đầu tiên bằng tiền anh kiếm được khiến anh rạng rỡ, mặc dù củ cải đã héo khô. Lúc ấy anh quyết định rằng cuộc sống được ăn, đi bộ và ngủ bất cứ đâu là sướng nhất rồi. Và anh đã sống như thế bảy năm cho đến khi anh đến miền nam Ohio, nơi một bà già và một cô gái anh biết ngày xưa đã đến.
Bây giờ anh đến ngược lại với lần anh đi. Đầu tiên anh đứng phía sau, gần nhà lạnh, kinh ngạc vì những đóa hoa cuối hè mọc loạn xạ ở chỗ đáng lẽ phải có rau mọc. Cẩm chướng, hoa bìm tía, hoa cúc. Những cái lon nằm bừa bãi, nhét đầy những cuống thối của vài loại cây, những đóa hoa héo đi như những vết lở loét. Dây thường xuân chết quấn quanh thân cây đậu và những nắm cửa. Những tấm hình in trong báo đã phai mờ được đóng đinh vào nhà xí và trên cây. Một sợi thừng không đủ dài để dùng làm việc gì khác ngoài trò chơi nhảy dây bị quăng đến gần bồn tắm, và hết hũ này đến hủ khác đựng đom đóm chết. Như căn nhà của một đứa bé, căn nhà của một đứa bé rất cao.
Anh bước đến cửa chính và mở cửa. Im lặng như tờ. Không có gì ở chỗ trước kia đã có lần một luồng sáng màu đỏ buồn bã thấm đẫm người anh, khiến anh dừng sững lại. Một khoảng trống không, ảm đạm và thiếu thốn. Đúng hơn là nỗi thiếu vắng, nhưng một nỗi thiếu vắng anh phải quyết tâm vượt qua, cũng như khi anh tin Sethe và bước qua làn ánh sáng phập phồng.
Anh liếc nhanh về phía cầu thang trắng lóa. Tay vịn của nó quấn đầy dây lụa, nơ, hoa chùm. Paul D bước vào nhà. Cơn gió nhẹ ngoài trời theo anh vào, lay động những dải dây lụa. Cẩn thận, không hẳn vội vã nhưng không để mất thời gian, anh leo lên những bậc thang sáng rỡ. Anh vào phòng của Sethe. Chị không có ở đấy và cái giường trông nhỏ đến nỗi anh tự hỏi làm sao anh và chị có thể cùng nằm trong ấy. Cái giường không trải khăn, và căn phòng ngột ngạt vì cửa sổ trên mái không mở.
Quần áo sặc sỡ nằm trên sàn. Chiếc áo Beloved mặc khi anh gặp cô lần đầu treo ở một cái móc trên tường. Một đôi giày trượt băng nằm nép trong một cái giỏ trong góc. Anh quay lại chiếc giường và nhìn nó mãi. Với anh dường như đấy không phải là chỗ của anh. Với một nỗ lực làm anh toát mồ hôi anh buộc mình hình dung ra chính mình đang nằm đấy, và khi anh thấy hình ảnh ấy anh phấn chấn lên. Anh đi đến phòng ngủ kia. Phòng ngủ của Sethe bừa bãi bao nhiêu thì phòng của Denver gọn ghẽ bấy nhiêu. Nhưng vẫn không có Sethe. Có thể chị đã đi làm lại vì chị đã khá hơn từ ngày anh nói chuyện với Denver. Anh xuống thang để hình ảnh của mình không di dịch trên chiếc giường hẹp. Anh ngồi xuống cạnh bàn bếp. 124 thiếu vắng một điều gì đấy. Điều gì đấy lớn lao hơn những người sống trong ấy. Điều gì đấy ngoài Beloved hay làn ánh sáng đỏ. Anh không thể biết điều ấy là gì, nhưng trong thoáng chốc nó dường như là tia sáng lóe lên từ một thứ thuộc về cõi khác, vừa chào mừng vừa trách móc, ngoài tầm hiểu biết của anh.
Bên tay phải của anh, qua cánh cửa phòng khách mở hé, anh nghe tiếng hát âm ư. Người nào đấy đang âm ư một điệu hát. Điệu nhạc dịu dàng và ngọt ngào, như một bài hát ru. Rồi vài chữ. Nghe như “Johnny cao, Johnny lớn, William dịu dàng cúi đầu khuất phục.” Dĩ nhiên rồi, anh nghĩ. Chị ở đấy – và chị ở đấy thật. Chị nằm dưới tấm chăn ghép màu tươi tắn. Tóc chị như đám rễ mềm mại đậm màu của những loài cây tốt, trải lượn trên mặt gối. Mắt chị, nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, vô hồn đến nỗi anh không chắc chị sẽ nhận ra anh là ai. Trong phòng sáng quá. Mọi thứ trông rẻ tiền.
“Cỏ Jack mọc cao,” chị hát. “Len cừu trên vai tôi, hoa mao lương và cỏ ba lá bay.” Chị mân mê một chùm tóc dài.
Paul D hắng giọng để ngắt lời chị “Sethe.”
Chị quay đầu “Paul D.”
“Ừ Sethe.”
“Em làm mực viết, Paul D. Hắn không làm được chuyện ấy nếu em không làm mực viết.”
“Mực viết nào? Ai?”
“Anh đã cạo râu.”
“Ừ Xấu không?”
“Không. Anh trông khá đấy.”
“Lừa mị của quỷ đấy. Anh nghe nói em không chịu ra khỏi giường?”
Chị mỉm cười, để nụ cười tắt đi và quay mắt lại phía cửa sổ.
“Anh cần nói chuyện với em.”
Chị không trả lời.
“Anh gặp Denver. Nó có nói với em không?”
“Nó về lúc ban ngày. Denver. Nó vẫn còn bên em. Denver của em.”
“Em phải dậy đi.” Anh bồn chồn. Chuyện này nhắc anh nhớ đến một điều gì đấy.
“Em mệt. Paul D. Mệt quá. Em phải nghỉ một lúc.”
Bây giờ anh biết anh nhớ đến cái gì và anh hét với chị, “Em không được chết. Đây là giường của Baby Suggs! Em đang định làm như thê phải không?”
Anh giận đến nỗi anh có thể giết chị được. Anh kìm mình, nhớ lại lời cảnh cáo của Denver, và thì thầm: “Em định làm gì. Sethe?”
“Ồ em chẳng có dự định gì. Chẳng có dự định gì.”
Xem này anh nói. “Denver ở đây ban ngày. Anh ở đây ban đêm. Anh sẽ chăm sóc em, em nghe không? Bắt đầu từ bây giờ. Đầu tiên là, em có mùi hôi. Em ở đây. Đừng cử động. Để anh đi đun nước.” Anh ngưng lại. “Anh đun nước có được không Sethe?”
“Và đếm chân em hả?” Chị hỏi anh.
Anh bước lại gần hơn. “Xoa chân em.”
Sethe nhắm mắt và mím môi lại. Chị đang nghĩ: Không. Chỗ nho nhỏ bên cạnh cửa sổ này là điều tôi muốn và được nghỉ ngơi. Bây giờ không còn gì để xoa và không còn lý do để làm như thế. Không còn gì để tắm, cho dù anh biết cách. Anh có sẽ tắm cho chị từng phần không? Đầu tiên là mặt chị, rồi hai bàn tay chị, đùi chi, chân chị, lưng chị? Cuối cùng là bộ ngực mệt nhoài của chị? Và nếu anh tắm chị từng phần, những phần của chị có còn liền lại với nhau không? Chị mở mắt, dù biết nhìn ngắm anh là nguy hiểm. Chị nhìn anh. Nhìn làn da hột đào, nếp nhăn giữa đôi mắt sẵn lòng chờ đợi và chị nhìn thấy điều ấy – điều trong con người anh, nỗi ơn phước đã biến anh thành một người đàn ông có thể bước vào một căn nhà và làm cho những người đàn bà khóc. Vì với anh, khi anh có mặt, họ khóc được. Khóc và kể cho anh nghe những điều họ chỉ kể cho nhau nghe, rằng thời gian không đứng yên, rằng chị đã gọi nhưng Howard và Buglar tiếp tục bước theo đường ray xe lửa và không nghe thấy chị gọi, rằng Amy sợ không dám ở lại với chị vì chân chị xấu xí và lưng chị trông ghê sớm, và mẹ chị khiến chị đau lòng, và chị không tìm thấy chiếc mũ của bà ở đâu cả và… “Paul D?”
“Gì thế em?”
“Nó bỏ em đi rồi.”
“Ừ đừng khóc em.”
“Nó là điều tốt đẹp nhất của em.”
Paul D ngồi xuống chiếc ghế đu và ngắm tấm chăn ghép sặc sỡ màu sắc hội chợ. Hai tay anh buông thõng giữa hai gối. Anh có biết bao nhiêu cảm nghĩ về người đàn bà này. Đầu anh nhức. Đột nhiên anh nhớ đến Sixo đang tìm cách diễn tả cảm nghĩ của nó về nguời-đàn-bà-ba-mươi-dặm. “Cô ấy là bạn của tâm hồn tao. Cô ấy gom tao lại. Những mảnh con người tao cô ấy gom về và trả lại cho tao theo đúng thứ tự. Mày biết không, có một người đàn bà là bạn của tâm hồn mình thì tuyệt.”
Anh nhìn chăm chăm vào tấm chăn ghép nhưng anh đang nghĩ về tấm lưng sắt uốn của chị, cái miệng ngọt ngào vẫn còn sưng ở khóe vì quả đấm của Ella. Đôi mắt đen cứng cỏi. Chiếc áo ướt bốc hơi trước ngọn lửa. Sự dịu dàng của chị về cái vòng cổ của anh – như một chiếc lục lạc gợi chú ý của trẻ con, có ba càng sáu mươi phân uốn cong lên. Cách chị không hề nhắc đến nó hay nhìn nó để anh không phải cảm thấy nỗi nhục nhã bị còng cổ như một con vật. Chỉ có cô Sethe này mới có thể để lại cho anh đàn ông tính của anh như thế. Anh muốn đặt câu chuyện của anh bên cạnh câu chuyện của chị.
“Sethe,” anh nói, “anh và em, mình có nhiều chuyện ngày qua hơn ai hết. Mình cần những chuyện của ngày mai.”
Anh nghiêng người xuống và cầm lấy tay chị. Với tay kia anh vuốt mặt chị. “Em là điều tốt đẹp nhất của em. Sethe. Là em.” Những ngón tay nắm lại của anh giữ lấy những ngón tay chị.
“Là em ư? Là em ư?”
Có nỗi cô đơn có thể đu đưa. Hai cánh tay bắt chéo, hai gối co lên: ôm lấy, ôm lấy. Không như chuyển động của con tàu, chuyển động này xoa dịu và giữ lấy người đu đưa. Nỗi cô đơn ấy ở bên trong – được bọc chặt như làn da bao quanh. Rồi có nỗi cô đơn lang thang. Đu đưa không giữ được nó. Nó sống một mình. Một thứ cô đơn buồn tẻ và dàn trải khiến tiếng chân bước của chính mình dường như vọng đến từ rất xa.
Mọi người biết gọi cô, nhưng khắp nơi không ai biết tên cô. Không được nhớ đến và không biết ở đâu, cô không thể bị lạc vì không ai tìm kiếm cô, và cho dù họ tìm kiếm, làm sao họ gọi cô nếu họ không biết tên cô? Mặc dù cô có đòi hỏi, cô không được người ta yêu cầu. Ở nơi đám cỏ cao mở ra, cô gái chờ đợi để được yêu và để buộc tội nổ tung lên thành những mảnh rời, để tiếng cười nghiến nát kia dễ dàng nuốt hết người cô.
Đó không phải là một câu chuyện để truyền lại.
Họ quên cô đi như một cơn ác mộng. Sau khi họ bịa ra những câu chuyện của họ, nhào nặn và tô điểm chúng, những người đã nhìn thấy cô trên hàng hiên ngày hôm ấy cố ý quên cô đi thật nhanh. Những người đã nói chuyện với cô, sống với cô, yêu cô, nhớ đến cô lâu hơn. Cho đến khi họ nhận ra rằng họ không thể nhớ hay lặp lại một lời nào cô đã nói, và bắt đầu tin rằng cô chưa từng nói một lời nào ngoài những điều họ tự nghĩ ra. Vì thế, cuối cùng, họ cũng quên cô đi. Nhớ đến cô dường như là không khôn ngoan. Họ không hề biết cô co ro ở đâu hoặc tại sao, hoặc cô đã cần khuôn mặt của ai dưới làn nước đến như thế. Ở nơi ký ức về nụ cười dưới cằm của cô có thể đã tồn tại nhưng không tồn tại, một cái chốt đã cài lại, và trên mặt kim loại của nó, rêu màu táo xanh đã bám vào. Cái gì khiến cô nghĩ móng tay cô có thể mở được những cái khóa đã ướt nước mưa?
Đó không phải là câu chuyện để truyền lại.
Vì thế họ quên cô đi. Như một giấc mộng không đẹp trong một giấc ngủ không ngon. Dù vậy, đôi khi, tiếng chiếc váy xào xạc ngưng lại khi họ thức giấc, và những khớp ngón tay lướt qua đôi má đang ngủ dường như là của người đang ngủ. Đôi khi tấm hình của một người bạn thân hay họ hàng – đã được nhìn ngắm quá lâu – thay đổi, và một điều gì đó, quen thuộc hơn chính khuôn mặt thân ái ấy đến thay vào. Họ có thể chạm vào điều ấy nếu họ muốn, nhưng họ không làm, vì họ biết nếu họ làm thế mọi chuyện sẽ thay đổi.
Đó không phải là câu chuyện để truyền lại.
Bên dòng nước phía sau 124, dấu chân cô lúc có lúc không, lúc có lúc không. Chúng quá quen thuộc. Một đứa trẻ hay một người lớn đặt chân mình vào những vết chân ấy, chúng đều vừa khít. Rút chân ra và những dấu chân lại biến mất như thể chưae có ai đã từng bước đi ở dấy. Dần dà tất cả các dấu vết biến mất, và không chỉ có những dấu chân bị quên lãng, mà cả dòng nước và những gì ở dưới dòng nước ấy nữa. Còn lại chỉ là thời tiết. Không phải là hơi thở của kẻ đã bị quên lãng và không biết ở đâu, mà là gió trong mái hiên, hay băng giá mùa xuân tan vội. Chỉ là thời tiết. Chắc chắn không phải tiếng kêu kéo đòi một nụ hôn.