Yêu Dấu (Beloved)

Chương 3
Trước
image
Chương 4
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
Tiếp

Những bí mật của Denver ngọt ngào. Nó luôn có hoa thủy cự bên mình cho đến khi khám phá ra nước hoa. Chai nước hoa đầu tiên là một món quà tặng, chai kế tiếp nó trộm của mẹ và giấu trong mấy bụi hoàng dương cho đến khi nước hoa đông đá và chai rạn nứt. Năm ấy mùa đông đến vội vào giờ ăn tối và ở lại tám tháng. Đấy là một năm trong Cuộc Chiến khi người phụ nữ da trắng, cô Bodwin, tặng quà Giáng sinh là nước hoa cho mẹ và nó, mấy trái cam cho bọn con trai và thêm một chiếc khăn len tốt nữa cho Baby Suggs. Trò chuyện về một cuộc chiến đầy xác chết, trông bà vui vẻ – mặt bà đỏ hồng và mặc dù giọng bà nặng như giọng đàn ông, bà tỏa hương như một căn phòng đầy hoa – niềm vui thích mà Denver có được cho riêng mình trong mấy bụi hoàng dương. Sau lưng 124 là một cánh đồng hẹp sát bìa rừng. Bên kia khu rừng là một dòng suối. Trong rừng giữa cánh đồng và con suối, khuất giữa những cây sồi là năm bụi hoàng dương, trồng thành vòng tròn. Khi mọc cao hơn một mét ngọn cây vươn mình giao nhau tạo thành một căn phòng trống hình tròn cao hơn hai mét với bức tường lá rì rào dày hơn một mét.

Denver có thể cúi người bò được vào căn phòng này, và khi vào rồi nó đứng thẳng lên trong làn ánh sáng màu lục ngọc.

Thoạt tiên đấy là trò chơi nhà cửa của một cô bé, nhưng khi mơ ước của Denver thay đổi, trò chơi cũng thay đổi theo. Nó trở nên lặng lẽ, riêng tư và hoàn toàn bí mật, ngoại trừ tín hiệu nước hoa nồng gắt khiến bọn thỏ háo hức rồi lại bối rối. Đầu tiên căn phòng là một chỗ chơi đùa (nơi sự yên lặng nhẹ nhàng hơn), rồi là chỗ ẩn náu (tránh nỗi sợ hai anh), không lâu sau nó thành địa điểm chính. Trong vòm lá ấy tách xa nỗi đau của thế gian đau khổ, trí tưởng tượng của Denver tạo ra cơn đói và thức ăn của riêng mình, điều Denver rất cần vì cô đơn làm nó mệt nhoài. Làm nó mệt nhoài. Được bức tường xanh sống động che kín và bảo vệ, nó cảm thấy chín mùi và trong sáng, và sự cứu rỗi dễ dàng như một điều ước nguyện.

Một lần vào một mùa thu lâu lắm trước khi Paul D dọn vào ở chung với mẹ nó, nó đột nhiên thấy lạnh ở trong mấy bụi hoàng dương vì gió và nước hoa trên da. Nó mặc áo, cúi người chui ra và đứng dậy trong làn tuyết rơi: những bông tuyết mỏng manh và xốp rất giống cảnh mẹ nó đã vẽ ra để diễn tả tình cảnh lúc nó ra đời trong một chiếc xuồng; trên ấy một cô da trắng đang đứng dạng chân, cô da trắng lấy tên cô đặt cho Denver.

Run rẩy, Denver đến gần căn nhà, nhìn căn nhà như nó vẫn nhìn, như nhìn một con người chứ không phải một kiến trúc. Một con người khóc lóc, thở dài, run rẩy và trở chứng bất chợt.

Bước chân và cái nhìn của nó thận trọng như khi một đứa trẻ lại gần một người họ hàng bồn chồn, rỗi việc (một người lệ thuộc nhưng kiêu hãnh). Mảnh giáp của bóng tối đã che tất cả cửa sổ trừ một cái. Ánh sáng lờ mờ tỏa ra từ căn phòng của Baby Suggs. Khi Denver nhìn vào, nó thấy mẹ nó đang quỳ cầu nguyện, một chuyện không có gì lạ. Điều khác thường (ngay cả đối với một cô bé đã sống cả đời trong một căn nhà bị người chết khuấy động) là một chiếc áo trắng quỳ bên mẹ nó và quàng tay áo vòng quanh eo mẹ nó. Vòng ôm dịu dàng của cánh tay áo làm Denver nhớ lại những chi tiết về sự ra đời của nó – vòng tay ôm và làn tuyết mỏng xốp xung quanh nó, như quả trái của những loài hoa thông thường. Chiếc áo và mẹ nó trông như hai người đàn bà trưởng thành – người này (chiếc áo) đang giúp đỡ người kia. Và sự chào đời kỳ diệu của nó đúng ra là một phép lạ, cũng như chính cái tên của nói là bằng chứng cho sự thân thiết ấy.

Nó dễ dàng bước vào câu chuyện kể đang trải ra trước mắt nó trên lối nó đi xa dần cửa sổ. Căn nhà chỉ có một cửa vào, và từ phía sau người ta phải đi vòng ra trước mặt tiền của 124 ngang qua nhà kho, phòng lạnh, nhà cầu, rồi vòng quanh đến hàng hiên. Muốn đến phần câu chuyện nó thích nhất, nó phải bắt đầu từ trước đấy rất lâu: nghe thấy tiếng chim trong rừng rậm, tiếng lá gẫy giòn dưới chân, nhìn thấy mẹ nó đang leo lên đồi. Sethe bước đi trên đôi chân đáng lẽ phải đứng yên. Chúng sưng to đến nỗi chị không thể nhìn thấy mu bàn chân hay cảm thấy cổ chân mình. Cẳng chân chị liền với một khối thịt u có năm móng chân viền cong xung quanh. Nhưng chị không thể và sẽ không dừng lại vì khi chị dừng lại, con linh dương nhỏ húc sừng vào chị và nóng nảy cào bộ móng vào bụng chị. Khi chị bước đó nó dường như yên ả gặm cỏ – vì thế chị bước đi, dù rằng với cái thai vào tháng thứ sáu hai bàn chân chị đáng lẽ phải đứng yên. Đứng yên cạnh ấm nước; đứng yên ở thùng đánh bơ; đứng yên ở bồn nước và tấm ván ủi quần áo. Sữa chua nhớp nháp trên áo chị, thu hút mọi loài sinh vật nhỏ có cánh, từ muỗi mắt đến cào cào. Lúc chị đến chân đồi chị đã thôi không buồn xua đuổi chúng nữa.

Tiếng lanh canh trong đầu chị, thoạt tiên như tiếng chuông nhà thờ xa xa, lúc ấy là những chiếc chuông rung sát bên tai. Chị sụp xuống và nhìn xem mình đang ở trong một cái hố hay đang quỳ gối. Thân thể chị không còn cảm giác ngoại trừ hai núm vú và con linh dương nhỏ. Cuối cùng chị nằm xuống hay chắc phải nằm xuống vì những lá hành dại đang cứa vào màng tang và má chị. Sethe bảo Denver rằng, dù rất lo cho sự sống của người mẹ của mấy đứa con chị, chị nhớ mình đã nghĩ: “Ôi chao, ít nhất mình không phải đi thêm một bước nào nữa.” Một ý nghĩ lúc sắp chết khá hay ho, và chị đợi con linh dương nhỏ phản đối, và Sethe không tưởng tượng nổi tại sao chị nghĩ đến linh dương vì chị chưa hề thấy con linh dương nào. Chị đoán đấy là chuyện tưởng tượng chị còn nhớ từ khoảng thời gian trước Tổ ấm, khi chị còn rất nhỏ. Về nơi chốn chị sinh ra (có thể là Carolina? hay Louisiana?) chị chỉ còn nhớ những lời ca điệu múa. Thậm chí chị không nhớ cả mẹ mình. Một đứa bé tám tuổi trông coi mấy đứa bé hơn đã chỉ cho chị thấy bà – một tấm lưng trong nhiều tấm lưng quay về phía chợ khom xuống trên cánh đồng ngập nước. Sethe kiên nhẫn chờ tấm lưng ấy đến cuối hàng và đứng thẳng lên. Chị nhìn thấy một chiếc mũ vải thay vì mũ rộng khá hiếm hoi trong số những người phụ nữ thủ thỉ, người nào cũng được gọi là mẹ.

“Sethe.”

“Dạ.”

“Giữ chặt đứa nhỏ”

“Vâng.”

“Sethe.”

“Dạ.”

“Mang củi nhóm vô đây.”

“Vâng.”

Ô nhưng khi họ hát. Và ô, nhưng khi họ múa. Và đôi khi họ múa điệu linh dương. Những người đàn ông cũng như những bà mẹ, một người trong số đó chắc chắn là mẹ của chị. Họ thay đổi hình dáng và biến thành một thứ khác, quyền uy và không bị xiềng xích, có đôi chân biết rõ nhịp đập của trái tim chị hơn chính chị. Y như đứa bé trong bụng chị.

“Mẹ nghĩ: Mẹ của đứa nhỏ này sẽ chết trong bụi hành dại bên phía bờ nô lệ của sông Ohio.” Chị nghĩ như thế và kể cho Denver nghe như thế. Đúng những chữ chị đã dùng. Nghĩ cho cùng ý tưởng rằng chị sẽ không phải bước thêm một bước nào nữa dường như không tệ lắm, nhưng ý nghĩ rằng chị sẽ nằm chết sóng soài trong khi con linh dương tiếp tục sống – một giờ? một ngày? một ngày một đêm? – trong thân xác không còn sự sống của chị khiến chị buồn rầu đến nỗi chị rên lên, và khiến người đang đi trên một lối mòn cách đó chưa đến mười mét dừng lại và đứng thật yên. Sethe không nghe tiếng bước chân, nhưng đột nhiên chị nghe như có người đang đứng yên và rồi chị ngửi thấy mùi tóc. Chị nghe giọng nói: “Ai trong đó? Chỉ cần từng ấy thôi là chị biết rằng một thằng nhóc da trắng sắp tìm ra chị. Rằng răng của nó cũng bựa vàng và nó thèm ăn. Rằng trên một đồi thông gần sông Ohio, trong khi chị gắng đến với ba đứa con, một đứa đang đói chờ thức ăn chị mang theo; rằng sau khi chồng chị biến mất; rằng sau khi sữa chị bị lấy cắp, lưng chị nát bấy, con chị thành mồ côi, chị sẽ không có được một cái chết thanh thản. Không.

Chị bảo Denver một thứ gì đấy trồi lên khỏi mặt đất nhập vào trong người chị – một thứ lạnh lẽo, nhưng cũng cử động như có quai hàm bên trong. “Hình như chỉ là hàm răng của mẹ lập cập vì lạnh,” chị nói. Chị bỗng háo hức chờ đôi mắt của thằng nhỏ, để cắn vào chúng; để gặm đôi má nó.

“Mẹ đói,” chị bảo Denver, “đói đôi mắt nó như chưa bao giờ đói hơn thế. Mẹ gần như không đợi nổi.” Vì thế chị nhổm người dựa trên khuỷu tay và lê mình, một, hai, ba bốn lần kéo lê về phía giọng nói da trắng trẻ con đang gọi quanh: “Ai ở trong đó vậy?”

“Tới xem đi.” Mẹ nghĩ. “Đó sẽ là điều cuối cùng mày nhìn thấy.” Và quả thật cặp chân hiện đến, vì thế mẹ nghĩ ôi chao, thể theo ý Chúa mẹ sẽ phải bắt đầu từ đấy, mẹ sẽ ăn đứt hai bàn chân nó. Giờ đây mẹ đang cười, nhưng đấy là chuyện thật. Không những mẹ sẵn sàng làm thế. Mẹ thèm làm thế. Mẹ như một con rắn. Chỉ có hàm răng và đói thèm.

Nhưng không phải là một thằng nhóc da trắng. Là một cô gái. Thứ rác rưởi tơi tả nhất đang nói: “Coi kìa. Một đứa da đen. Lạ lùng chưa.”

Và bây giờ là phần Denver thích nhất: Tên cô gái là Amy và cô cần thịt bò và rượu hơn ai hết. Cánh tay cô như thân mía và tóc đủ cho bốn năm cái đầu. Mắt cô lờ đờ chậm chạp. Cô không có cái nhìn tinh nhanh với bất cứ thứ gì. Nói nhiều đến nỗi không rõ làm sao cô có thể thở được cùng lúc. Và hai cánh tay thân mía hóa ra mạnh như sắt.

“Tôi chưa thấy cái gì ghê hơn chị. Chị làm gì ở trong đấy thế?”

Trong đám cỏ bên dưới, tưởng mình là con rắn, Sethe mở miệng và thay vì răng nanh và cái lưỡi chẻ đôi, sự thật vọt ra.

“Chạy trốn,” Sethe bảo cô. Đó là chữ đầu tiên chị nói ngày hôm ấy, nghe không rõ vì lưỡi chị đau.

“Chạy bằng cặp chân đó hả? Chúa tôi!”

Cô ngồi xổm xuống và nhìn chân Sethe chằm chằm. “Chị có cái gì ăn được không?”

“Không.” Sethe cố chuyển thành thế ngồi nhưng không thể.

“Tôi đói muốn chết!” Cô gái chậm chạp rời mắt, xem xét cây cỏ xung quanh. “Tôi tưởng có dâu dại. Trông giống nó. Bởi vậy tôi lên đây. Không ngờ gặp bà da đen. Nếu có dâu dại, chim cũng ăn hết rồi. Chị có thích dâu dại không?”

“Cô ơi tôi đang có thai.”

Amy nhìn chị – “Có nghĩa là chị không thèm ăn? Ôi cha, tôi phải ăn cái gì đó.”

Vừa lấy ngón tay chải tóc, cô vừa cẩn thận quan sát khung cảnh một lần nữa. Sau khi chắc chắn xung quanh không có thứ gì ăn được, cô đứng dậy đi và tim Sethe cũng bật dậy vì ý nghĩ chị sẽ bị bỏ lại một mình trong đám cỏ, không có cái nanh nào trong đầu.

“Cô, cô đi đâu đó?”

Cô ta quay nhìn Sethe, mắt sáng lên. “Đi Boston. Tôi đi tìm ít vải nhung. Ở đó có một tiệm tên là Wilson. Tôi đã xem ảnh và họ có loại nhung đẹp nhất. Mấy người kia không tin tôi sẽ tìm được nhưng mà tôi sẽ tìm được.”

Sethe gật đầu và trở người sang khuỷu tay kia. “Mẹ cô có biết cô đi tìm vải nhung không?”

“Cô gái lắc đầu, hất những sợi tóc ra khỏi khuôn mặt. “Mẹ tôi làm cho mấy người kia, họ đã trả tiền cho bà tới đây. Nhưng rồi bà chết ngay sau khi bà sinh tôi, cho nên họ nói tôi phải làm công cho họ để trả nợ. Tôi cũng làm, nhưng bây giờ tôi muốn có ít vải nhung.”

Họ không nhìn thẳng vào nhau, ít nhất không nhìn thẳng vào mắt nhau. Thế nhưng họ dễ dàng tán gẫu những chuyện đâu đâu – ngoại trừ chuyện người đang nằm trên mặt đất.

“Boston,” Sethe nói. “Chỗ đó xa không?”

“Xa lắm. Cách một trăm dặm. Có thể hơn.”

“Chắc phải có vải nhung gần đây hơn.”

“Không giống như vải nhung ở Boston. Vải nhung ở Boston là tốt nhất. Tôi mặc vải nhung đó vào sẽ đẹp lắm. Chị có sờ mặt vải nhung bao giờ chưa?”

“Chưa. Tôi chưa sờ vải nhung lần nào.” Sethe không biết là vì giọng nói, hay Boston, hay vải nhung, nhưng trong lúc cô da trắng nói, đứa bé ngủ. Nó không húc hay đá, vì thế chị đoán là thời vận của chị đã thay đổi.

“Chị có thấy vải nhung bao giờ chưa?” Cô hỏi Sethe. “Tôi dám cá chị chưa nhìn thấy.”

“Nếu có thấy tôi cũng không biết. Vải nhung đó ra sao hả cô?”

Amy lê mắt qua Sethe như thể cô sẽ không bao giờ tiết lộ một tin tức cẩn mật đến thế với một kẻ lạ.

“Chị tên gì?”

Dù chị xa Tổ ấm cách mấy, cho người đầu tiên chị gặp biết tên thật nào có ích gì. “Lu.” Sethe nói. “Họ gọi tôi là Lu.”

“Chị Lu này, vải nhung như là thế giới vừa được tạo thành. Sạch và mới và mượt ơi là mượt. Vải nhung tôi thấy màu nâu, nhưng ở Boston họ có đủ màu. Có màu son. Màu son có nghĩa là màu đỏ nhưng khi chị nói tới vải nhung chị phải nói màu son.”

Cô ngước mắt nhìn lên trời và rồi, như thể cô không muốn phí thêm thời gian, cô vừa bỏ đi vừa nói, “Tôi phải đi.” Vừa tìm lối qua bụi rằng cô vừa hét vọng lại với Sethe, “Chị làm gì đây? Chỉ nằm đó rồi đẻ hay sao?”

“Tôi đứng lên không nổi,” Sethe nói.

“Cái gì?” Cô ngừng lại và xoay mình để nghe.

“Tôi nói tôi đứng lên không nổi.”

Amy đưa cánh tay lên quẹt mũi và từ từ bước trở lại cho Sethe nằm. “Đằng kia có một căn nhà.” Cô nói.

“Một căn nhà?”

“Ừm. Tôi vừa đi ngang qua. Mà nó không phải là một căn nhà bình thường có người ở. Nó như một cái chái thôi.”

“Nó cách đây bao xa?”

“Cái chái cũng còn đỡ, phải không? Chị mà qua đêm ở đây rắn sẽ cắn chị.”

“Ôi cha, rắn cắn tôi cho rồi. Tôi đứng lên còn không nổi chứ đừng nói gì đến bước đi, và lạy Chúa, cô ơi, tôi không bò nổi.”

“Chị làm được mà, Lu. Cố lên.” Amy nói, và hất mái tóc đủ cho năm cái đầu, cô đi về phía con đường mòn.

Thế là chị bò và Amy đi bên cạnh chị, và khi Sethe cần nghỉ Amy cũng ngừng và nói tiếp về Boston và vải nhung và những thức ăn ngon. Giọng nói ấy, như giọng một thằng nhóc mười sáu tuổi nói hoài hủy, khiến con linh dương nhỏ yên lặng và gặm cỏ. Trong suốt thời gian Sethe cực khổ bò đến cái chậu nó không đá lần nào.

Khi họ đến cái chái, không có thứ gì của Sethe còn nguyên vẹn ngoại trừ tấm khăn buộc tóc. Chị không còn cảm giác phía dưới hai đầu gối bết máu, ngực chị là hai tấm gối găm đầy kim. Giọng nói đầy vải nhung và Boston và thức ăn ngon thúc đẩy chị tiến tới và khiến chị nghĩ rằng, rốt cuộc có thể chị không phải chỉ là một nghĩa trang đang bò đi trong những giờ cuối cùng của một đứa bé sáu tháng tuổi.

Cái chái ngập lá, Amy dùng lá để đầy thành đống cho Sethe nằm. Rồi cô gom mấy hòn đá lấy thêm lá trải lên và bắt Sethe đặt chân lên đấy, cô nói: “Tôi biết một bà bị cắt bỏ chân vì nó sưng to quá.” Và cô đưa bàn tay làm lưỡi dao cưa qua lại hai cổ chân Sethe. “Zzz Zzz Zzz Zzz.”

“Lúc trước tôi cũng có da có thịt. Cánh tay đẹp, đủ thứ. Chị không tưởng tượng được, phải không? Đó là trước khi họ bỏ tôi vào hầm chứa củi. Có lần tôi câu cá ở Beaver. Cá bông lau ở sông Beaver ngọt như thịt gà. Ui cha, tôi đang câu cá thì có một tên da đen lều bều trôi qua. Tôi không thích xác chết đuối, còn chị? Chân chị làm tôi nhớ đến hắn. Chân hắn cũng sưng vù như vậy đó.” Rồi cô làm phép thuật: cô nhắc bàn chân và cẳng chân Sethe lên và xoa bóp cho đến khi chị khóc những giọt lệ đau đớn.

“Chị sẽ đau.” Amy nói. “Cái gì đã chết rồi, khi sống trở lại cũng sẽ đau.”

Điều ấy lúc nào cũng đúng, Denver nghĩ. Có thể chiếc áo trắng quàng tay quanh eo của mẹ nó đang đau đớn. Nếu thế, không chừng hồn ma đứa bé có dự định. Khi Denver mở cửa nhà Sethe đang từ phòng khách đi ra.

“Con thấy một cái áo trắng níu lấy mẹ.” Denver nói.

“Màu trắng? Có thể là cái áo động phòng của mẹ. Tả nó cho mẹ xem.”

“Áo cổ cao. Có nhiều nút sau lưng.”

“Nút. Vậy là không phải là cái áo động phòng của mẹ. Mẹ chưa có cái gì có nút.”

“Bà nội Baby có không?” Sethe lắc đầu. “Bà không cài nổi chúng. Thậm chí nút dây giày. Còn gì nữa?”

“Có vải xếp thành đống sau lưng. Ngay mông.”

“Khung váy? Nó có khung váy?”

“Con không biết nó gọi là gì.”

“Như vải gói túm lại? Ở phía dưới eo sau lưng?”

“Đúng vậy.”

“Một cái áo bà nhà giàu. Nó bằng lụa?”

“Có vẻ như vải.”

“Chắc là vải bông mịn. Vải bông mịn trắng. Con nói cái áo níu lấy mẹ. Nó níu như thế nào?”

“Giống như mẹ. Nó trông y như mẹ. Nó quỳ bên cạnh mẹ trong lúc mẹ cầu nguyện. Quàng tay qua eo mẹ.”

“Ôi cha, lạ chưa?”

“Mẹ cầu nguyện cho cái gì thế?”

“Không cho cái gì hết. Mẹ đã thôi không cầu nguyện nữa. Mẹ chỉ trò chuyện.”

“Mẹ nói chuyện gì?”

“Con yêu, con không hiểu đâu.”

“Con sẽ hiểu mà.”

“Mẹ nói về thời gian. Mẹ thấy khó tin nó quá. Có những thứ mất đi. Qua đi. Có những thứ ở lại. Mẹ thường nghĩ rằng đấy là vì ký ức của mẹ. Con biết mà. Có những thứ mình quên. Những thứ khác mình không bao giờ quên. Nhưng không phải thế. Những nơi chốn, những nơi chốn vẫn còn đấy. Nếu một căn nhà cháy rụi, nó mất đi nhưng nơi chốn – hình ảnh của nó – vẫn còn lại, và không chỉ trong ký ức mẹ, mà cả trong thế gian nữa. Điều mẹ nhớ là một hình ảnh lênh đênh ở ngoài tâm trí mẹ. Ý mẹ muốn nói là, cho dù mẹ không nghĩ đến nó, cho dù mẹ chết đi, hình ảnh của điều mẹ đã làm, hay đã biết, hay đã thấy vẫn còn ở ngoài kia. Ngay ở chỗ nó đã xảy ra.”

“Những người khác có thấy được nó không?” Denver hỏi.

“Ồ có chứ. Ồ, có, có, có. Ngày nào đấy con sẽ bước đi trên đường và con sẽ nghe hay thấy một điều gì đó. Rất rõ ràng. Và con sẽ nghĩ đấy là do con tưởng tượng ra. Một hình ảnh trong tâm tưởng. Nhưng không đâu. Đấy là khi con va vào ký ức của một người khác. Nơi mẹ ở trước khi mẹ đến đây, chỗ ấy có thực. Nó sẽ không bao giờ mất đi. Dù cho tất cả nông trại ấy – mỗi cây và lá cỏ của nó chết đi, hình ảnh vẫn còn đấy. Và thêm nữa, nếu con đến đấy – con, người chưa từng đến đấy – nếu con đến đấy và đứng vào chỗ của nó, nó sẽ lại xảy ra lần nữa; nó sẽ ở đấy vì con, chờ đợi con. Vì thế, Denver, con không bao giờ được đến đấy. Không bao giờ. Bởi vì cho dù chuyện đã qua, đã qua và đã xong – nó sẽ vẫn luôn ở đấy đợi con. Vì thế mẹ phải mang con mẹ trốn đi. Bất kể chuyện gì xảy ra.”

Denver cậy móng tay. “Nếu nó vẫn còn đấy chờ đợi, có nghĩa là không có cái gì chết đi bao giờ.”

Sethe nhìn thẳng mặt Denver. “Không có cái gì chết đi bao giờ”, chị nói.

“Mẹ chưa bao giờ nói cho con nghe tất cả mọi chuyện. Mẹ chỉ nói là họ đánh mẹ, và mẹ trốn đi lúc đang có thai. Có thai con”.

“Trừ chuyện thầy giáo, không còn gì đáng kể. Hắn nhỏ người. Lùn. Lúc nào cũng đeo cổ áo, ngay cả những khi ở ngoài đồng. Bà nói hắn là thầy giáo. Bà mừng là chồng của cô em chồng có học và chịu đến làm việc nhà nông ở Tổ ấm sau khi ông Garner mất. Mấy người đàn ông có thể làm được, dù Paul F đã bị bán đi. Nhưng như Halle nói, bà không muốn là người da trắng duy nhất ở nông trại và lại là đàn bà nữa. Thế nên bà hài lòng khi thầy giáo chịu đến. Hắn mang theo hai đứa con trai. Con hoặc là cháu hắn. Mẹ không biết. Hai thằng nhỏ gọi hắn là Onka và tất cả bọn họ có dáng điệu đẹp đẽ, ăn nói nhỏ nhẹ và nhổ vào khăn tay. Nhã nhặn đủ kiểu. Con biết mà, loại người biết tên riêng của Jesus nhưng vì lịch sự nên tránh gọi nó ngay cả trước mặt Ngài. Hắn là một nhà nông khá, Halle nói. Không mạnh bằng ông Garner nhưng khá lanh lợi. Hắn thích mực viết mẹ làm. Công thức của bà chủ, nhưng hắn thích cách mẹ pha hơn và điều ấy quan trọng đối với hắn vì ban đêm hắn ngồi xuống viết vào cuốn sách của hắn. Cuốn sách ấy viết về bọn mẹ nhưng ngay lúc đó mẹ không biết. Bọn mẹ chỉ nghĩ hắn hỏi han vì lịch sự. Hắn bắt đầu mang theo cuốn sổ và ghi chép những gì bọn mẹ nói. Mẹ vẫn nghĩ những câu hỏi ấy giằng xé Sixo. Giằng xé anh ấy mãi.”

Chị ngưng lại.

Denver biết mẹ nó kể xong rồi – ít nhất trong lúc này. Một cái chớp mắt chậm rãi, môi dưới từ từ kép lên phủ môi trên; và rồi một tiếng thở dài bằng mũi như tiếng ngọn nến bị thổi tắt đi – dấu hiệu Sethe đã đến mức chị không muốn vượt qua.

“Con nghĩ đứa bé có những dự định đấy.” Denver nói.

“Dự định gì?”

“Con không biết. Nhưng cái áo níu lấy mẹ phải có ý nghĩa gì đấy.”

“Có thể.” Sethe nói. “Có thể nó đang có dự định thật.”

******

Dù họ đã là những người thế nào hay từng sống ra sao, Paul D đã vĩnh viễn làm rối tung mọi chuyện. Với một cái bàn và giọng nam ầm ĩ, anh đã đuổi đi lý do làm 124 nổi tiếng trong vùng. Denver đã tự bảo mình nên hãnh diện về những lời chê trách mà dân da đen đã chất chồng lên họ: sự giả định rằng chuyện ma ám là của ác quỷ đang muốn phá quấy. Không ai trong số những người ấy biết được nỗi vui thú đích thực của phép thuật, của nhận biết chứ không phải hoài nghi về những chuyện phía sau mọi chuyện. Hai anh nó biết, nhưng sợ; bà Baby biết nhưng buồn. Không ai thấu hiểu được rằng có ma làm bè bạn là an toàn. Ngay cả Sethe cũng không thích. Chị chỉ xem nó là tự nhiên – như thời tiết thay đổi bất ngờ.

Nhưng hồn ma đi mất rồi. Bị thổi vù đi mất trong luồng gió từ tiếng hét của người đàn ông da màu quả phỉ, để lại thế giới của Denver gần như phẳng lặng, ngoại trừ một cái tủ màu lục ngọc cao hơn hai mét trong rừng. Mẹ nó có bí mật – những điều chị không muốn kể, những điều chị kể một nửa. Ôi chao, Denver cũng có bí mật. Và bí mật của nó ngọt ngào – ngọt như nước hoa mùi hoa kèn trắng.

Sethe không nghĩ nhiều đến chiếc áo trắng cho đến khi Paul D đến, và rồi chị nhớ đến lời suy diễn của Denver: Những dự định. Buổi sáng sau đêm đầu tiên với Paul D, chỉ nghĩ đến ý nghĩa của chữ ấy thôi đã làm Sethe mỉm cười. Đấy là sự xa xỉ chị chỉ có được một lần mười tám năm về trước. Trước và sau lần ấy, chị dồn sức, không phải để tránh né đau đớn, nhưng để vượt qua nó càng nhanh càng tốt. Dự định duy nhất của chị – trốn khỏi Tổ ấm – không xuôi thuận đến nỗi chị không bao giờ thách thức cuộc đời bằng cách dự tính thêm nữa.

Dù thế, buổi sáng chị thức dậy bên cạnh Paul D, chữ con chị đã dùng mấy năm trước thoáng qua đầu chị, và chị nghĩ đến chiếc áo quỳ bên cạnh chị mà Denver đã thấy và cũng nghĩ đến sự cám dỗ của lòng tin và hồi tưởng, sự cám dỗ đã ghì chặt lấy chị khi chị đứng trước bếp lò trong vòng tay anh. Chị có được phép không? Chị có được phép cảm xúc không? Nương dựa vào điều gì đấy có được không? Nằm bên anh và lắng nghe tiếng anh thở chị không thể nghĩ được rành rọt, vì thế chị thận trọng, thận trọng rời khỏi giường.

Quỳ trong phòng khách nơi chị thường đến để nói-nghĩ, chị hiểu lý do tại sao Baby Suggs đói màu sắc. Không có màu sắc nào trong căn phòng trừ hai miếng vải vuông màu cam trong tấm chăn ghép. chúng khiến sự thiếu vắng màu sắc càng nổi bật lên. Tường phòng màu xám đen sàn phòng màu đất nâu, tủ áo gỗ màu gỗ tự nhiên, màn cửa màu trắng, và nét nổi bật là tấm chăn ghép trên một cái giường sắt nhỏ, được may bằng những miếng vải vụn màu xanh, vải len màu đen, nâu và xám – những màu tối và chìm của tính tằn tiện và khiêm tốn.

Trong khoảng không gian ảm đạm ấy, hai mảnh màu cam trông hoang dã – như đời sống nguyên sơ.

Sethe nhìn hai bàn tay mình, cánh tay áo màu xanh vỏ chai, và nghĩ căn nhà ít màu sắc làm sao, và lạ lùng là chị không thấy thiếu nó như Baby đã thấy thiếu. Chị cố ý, chị nghĩ, phải là chị cố ý, vì màu sắc cuối cùng chị nhớ được là những đốm hồng trên tấm bia mộ của con bé con chị. Sau đó chị nhìn màu sắc không rõ hơn một con gà mái. Mỗi sáng sớm chị làm bánh trái cây các món ăn bằng khoai tây và rau trong khi đầu bếp nấu xúp thịt và các món còn lại. Thế mà chị không nhớ nổi một trái táo xanh hay một quả bí vàng. Mỗi sáng sớm chị nhìn thấy bình minh, nhưng không bao giờ nhận biết hay bình phẩm về màu sắc của nó. Có điều gì không ổn trong chuyện ấy. Như thể một ngày chị nhìn thấy máu đỏ trẻ thơ một ngày khác những đốm hồng trên bia mộ, và thế là hết.

124 tràn ngập những cảm xúc mạnh mẽ nên có lẽ chị không còn chú ý đến bất kỳ mất mát nào khác. Đã có lúc chị dõi mắt nhìn những cánh đồng mỗi sáng và mỗi tối tìm hai đứa con trai. Khi chị đứng bên cửa sổ, không màng đến lũ ruồi, đầu chị nghiêng về phía vai trái, mắt chị tìm kiếm chúng phía bên phải. Bóng mây trên đường, một bà già một con dê không dây buộc lang thang gặm bụi mâm xôi – thoạt tiên mỗi người hay vật đều giống Howard – không, giống Buglar. Dần dà chị thôi nhìn và khuôn mặt mười ba tuổi của chúng phai đi thành khuôn mặt của chúng lúc bé thơ, hai khuôn mặt chỉ đến với chị trong giấc ngủ. Khi cơn mơ của chị lang thang ra ngoài 124, đến chỗ nào nó muốn. Đôi khi chị thấy chúng trên những cái cây xinh đẹp, mấy cẳng chân nhỏ thấp thoáng giữa những chiếc lá. Đôi khi chúng cười vang khi chạy dọc theo đường ray, rõ ràng chúng cười quá lớn nên không nghe thấy tiếng chị gọi, vì chúng không hề quay lại. Khi chị thức giấc, căn nhà vây quanh chị: bánh quy giòn xếp thành hàng ở cửa; những bậc thang trắng con bé của chị thích leo; góc nhà nơi Baby Suggs ngồi vá giày, trong căn phòng lạnh lẽo vẫn còn một đống giày; chỗ trên bếp lò nơi Denver bị bỏng mấy ngón tay. Và dĩ nhiên nỗi hằn học của chính căn nhà. Không còn chỗ cho thứ gì khác hay ai khác cho đến khi Paul D đến và đảo lộn căn nhà, dọn trống chỗ, dời hồn ma, đưa nó đến chỗ khác rồi đứng vào chỗ anh tạo ra.

Vì thế, buổi sáng sau khi Paul D đến, quỳ gối trong phòng khách, chị bị xao nhãng vì hai mảnh vuông màu cam cho thấy 124 trống trải như thế nào. Là tại anh. Những cảm xúc trào lên khi có anh bên cạnh. Mọi thứ trở về nguyên trạng: tẻ ngắt thì trông tẻ, nóng thì thấy nóng. Cửa sổ đột nhiên có khung cảnh. Và ai biết đâu được anh ưa ca hát.

           Chút gạo, chút đậu

           Giữa không có thịt

           Việc nặng dễ đâu

           Bánh khô không mỡ

Anh đã dậy và vừa hát vừa vá sửa lại nhưng thứ anh đập bể ngày hôm trước. Vài đoạn bài hát anh học được trong nông trại ở nhà tù, hay sau đó trong Cuộc Chiến. Chúng không giống chút nào những bài họ hát ở Tổ ấm, nơi nỗi khao khát tô điểm từng nốt nhạc.

Những bài hát anh học được ở Georgia là những cái đinh đầu phẳng để nện và nện và nện.

           Đặt đầu tao trên đường ray

           Xe đến làm yên trí tao

           Nếu tao có bao vôi nặng

           Tao quất mù đặc thằng cai

           Năm xu là đồng năm xu

           Mười xu là đồng một hào

           Đập đá là đập thời gian

Nhưng những bài hát này không thích hợp. Chúng ồn ào quá, mạnh mẽ quá đối với những việc vặt trong nhà – gắn lại chân bàn, đánh bóng gỗ.

Anh không thể nhớ bài Bão trên sóng nước họ đã hát dưới những gốc cây ở Tổ ấm, vì thế anh đành âm ư điệu nhạc, sực nhớ câu nào thì hát câu đó, và anh sực nhớ hoài câu “Chân trần và sáp hoa cúc. Cởi này tôi, cởi mũ tôi.”

Anh muốn đổi lời (Trả giày tôi, trả mũ tôi) vì anh không tin anh có thể sống với một người đàn bà – bất cứ người đàn bà nào – quá hai hay ba tháng. Anh chỉ ở một chỗ lâu đến thế thôi. Sau Delaware và trước Alfred, Georgia, nơi anh ngủ dưới hầm và bò ra ánh sáng mặt trời chỉ để đập đá, cách duy nhất anh có thể thuyết phục mình anh sẽ không còn phải ngủ, đái, ăn hay vung búa tạ trong vòng xiềng xích, là bỏ đi khi anh không còn muốn ở.

Nhưng đây không phải là một người đàn bà bình thường trong một căn nhà bình thường. Ngay lúc anh vừa bước qua làn ánh sáng đỏ, anh biết rằng, so với 124 thế giới còn lại tẻ nhạt. Sau Alfred anh đã khép kín lại một phần lớn đầu óc mình, chỉ hoạt động bằng phần giúp anh đi, ăn, ngủ, hát. Nếu anh làm được những điều ấy – cộng thêm chút công việc và tình dục – thì anh không mong gì hơn nữa, vì nếu anh muốn hơn nữa anh sẽ phải nghĩ lâu đến khuôn mặt Halle, và Sixo đang cười. Phải nhớ lại cơn run rẩy trong cái cũi xây dưới lòng đất. Phải biết ơn ánh sáng ban ngày trôi qua trong công việc nặng nhọc nơi mỏ đá vì anh không run khi có cái búa trong tay. Cái cũi làm được điều mà Tổ ấm không làm được, điều mà làm việc như một con la và sống như một con chó không làm được: làm anh nổi điên lên để anh không mất trí.

Khi anh đến Ohio, rồi đến Cincinnati, rồi đến nhà của mẹ Halle Suggs, anh nghĩ mình đã nhìn thấy và cảm thấy mọi thứ.

Ngay bây giờ, khi sửa lại khung cửa sổ anh đã đập nát, anh vẫn không thể hiểu được nỗi ngạc nhiên hân hoan của mình khi thấy vợ Halle còn sống, chân trần và tóc không buộc khăn – bước vòng quanh góc căn nhà, giày tất trong tay. Phần khép kín của đầu anh mở ra như một cái khóa đã được bôi trơn.

“Anh đang định kiếm việc làm quanh đây. Em nghĩ sao?”

“Không có việc gì nhiều đâu. Phần lớn là việc trên sông. Và việc lò mổ heo.”

“Ờ anh chưa bao giờ làm việc trên sông nước, nhưng anh có thể nhấc bất cứ cái gì nặng bằng anh, kể cả heo.”

“Người da trắng ở đây tốt hơn ở Kentucky, nhưng không chừng anh phải xoay sở.”

“Vấn đề không phải là anh có xoay sở hay không mà là xoay sở ở đâu. Ý em là anh xoay sở ở đây cũng được phải không?”

“Rất được ấy chứ.”

“Con gái em, Denver. Có vẻ nó nghĩ khác.”

“Tại sao anh nói vậy?”

“Nó như đang chờ đợi. Nó chờ cái gì đấy không phải là anh.”

“Em không biết nó chờ cái gì.”

“Thế đó, không rõ là gì, nhưng nó tin là anh sẽ ngăn trở điều nó đang chờ.”

“Đừng ngại nó. Nó là con bé có phước. Từ thuở đầu.”

“Vậy sao?”

“Vâng. Chuyện xấu không xảy đến với nó được. Nghĩ mà xem. Mọi người em biết đều đã chết hay bỏ đi hay không tăm tích. Nó thì không. Denver của em thì không. Ngay khi em còn mang thai nó, lúc đã rõ ràng em sắp chết – có nghĩa nó cũng sắp chết – nó lôi từ ngọn đồi ra một cô da trắng. Có ai dám ngờ cô ta sẽ giúp được gì. Và khi thầy giáo tìm ra bọn em và xông đến đây cùng với cảnh sát và súng ngắn…”

“Thầy giáo tìm ra em?”

“Mất một thời gian, nhưng cuối cùng hắn tìm ra.”

“Và hắn không mang em về?”

“Ồ không. Em không muốn về. Em không cần biết ai tìm ra ai. Cuộc sống nào cũng được ngoại trừ cuộc sống ấy. Thay vì thế, em đi tù. Denver còn bé vì thế nó đi tù luôn với em. Mấy con chuột cắn mọi thứ trong đó nhưng chừa nó ra.”

Paul D quay đi. Anh muốn biết nhiều hơn, nhưng chuyện tù ngục mang anh về lại Alfred, Georgia.

“Anh cần vài cái đinh. Anh có mượn được ai quanh đây không hay là anh phải vào phố?”

“Anh vào phố cho rồi. Anh sẽ cần những thứ khác.”

Một đêm thôi là họ đã nói chuyện như vợ chồng. Họ bỏ qua phần yêu đương và hứa hẹn và đi thẳng đến Em nói xem anh có xoay sở được ở đây không?

Với Sethe, tương lai là đẩy lùi quá khứ. “Cuộc sống tốt hơn” mà chị tin mình và Denver đang sống chỉ đơn giản là không phải cuộc sống kia.

Chuyện Paul D từ “cuộc sống kia” vào giường của chị cũng tốt hơn; và khái niệm về một tương lai với anh, hay không có anh cũng thế, bắt đầu khiến chị ngẫm nghĩ. Về phần Denver, việc quan trọng là Sethe phải giữ nó xa khỏi quá khứ vẫn đang chờ đợi nó.

Trước
image
Chương 4
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!