Tình Yêu Thời Thổ Tả

Chương 21
Trước
image
Chương 21
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
Tiếp

Đêm trước ngày đến cảng Caracôli, bến cuối cùng của lộ trình, theo truyền thống của hãng tàu, viên thuyền trưởng đãi hành khách một bữa tiễn biệt. Đó là một cuộc vui gồm có âm nhạc do các thủy thủ chơi đủ loại kèn sáo và pháo hoa bắn lên từ tháp chỉ huy trên boong thượng. Vị Đại sứ Vương Quốc Anh đã vượt qua một chuyến đi gian nan mà anh hùng kiểu Uylit với một sự khôn khéo điển hình, bằng cách dùng máy ảnh săn những chú cá sấu và đủ loại con vật khác mà bị thuyền trưởng cấm săn bằng súng hai nòng và không một bữa ăn nào không diện bộ sang trọng khi bước vào phòng ăn. Nhưng trong bữa tiệc tiễn biệt này ngài mặc y phục may bằng vải sợi sọc sặc sỡ, màu của bộ lạc Hăctavisơ, say sưa thổi tù và, lòng đầy hào hứng dạy cho tất cả những ai muốn nhảy các điệu vũ dân tộc. Rồi trước khi rạng sáng, người ta phải dìu ngài về phòng.

Phlôrêntinô Arixa buồn rầu vì đau yếu đã tìm đến một xó khuất để lẩn trốn cuộc vui và tại đấy anh trùm lên thân mình chiếc áo rét của Lôtariô Tugut, cố chống lại cơn sốt từ trong xương tủy. Anh thức dậy từ lúc năm giờ sáng và suốt ngày thứ bảy ấy, anh không làm gì ngoài việc từng phút từng phút mường tượng ra buổi hôn lễ của Phecmina Đaxa với từng chi tiết diễn ra trong từng thời khắc. Sau này khi về đến nhà, anh mới vỡ nhẽ rằng mình đã nhầm lẫn các thời khắc và trên thực tế đám cưới của cô diễn ra khác hẳn với những điều anh tưởng tượng và anh phải buồn cười tự chế nhạo những cảnh tượng được anh tưởng tượng ra. Nhưng dù sao đó là một ngày thứ bảy của những xúc cảm mạnh mẽ khiến anh lại lên cơn sốt nhất là khi anh mường tượng ra cảnh đôi tân hôn lẻn trốn đám công chúng dự tiệc để lẻn vào phòng kín tận hưởng niềm hoan lạc của đêm đầu tiên. Một ai đó nhìn thấy anh run bắn lên đã đi báo cho vị thuyền trưởng và vị này vội vàng bỏ dở cuộc vui dắt theo một bác sĩ vì ông sợ anh bị bệnh tả. Viên bác sĩ cẩn thận đưa anh về phòng nằm rồi ra lệnh cho y tá tiêm cho anh một mũi tiềm phòng tả. Tuy nhiên ngày hôm sau, khi nhìn thấy những mõm núi đá nhấp nhô ở thành phố Caracôli thì cơn sốt của anh biến mất và lòng anh lại hân hoan vui sướng vì trong lúc nằm cho cơn sốt hạ, anh đã kiên quyết và dứt khoát từ bỏ nghề điện báo, trở về ngôi nhà của mình trên phố Lát Vênhtanat khi con tàu này quay xuôi. Đối với anh chẳng khó khăn gì trong việc thuyết phục nhà tàu phải cho anh đi thế vào suất vé giường nằm mà anh đã nhường vị Đại sứ Vương quốc của Anh. Vị thuyền trưởng cũng cố tình an ủi anh bằng chính luận điểm cho rằng điện báo là khoa học của tương lai. Chính vì thế ông nói người ta đang tìm cách thiết lập hệ thống điện báo trên các tàu thủy nhưng anh đã phản đối mọi lý lẽ. Thế là vị thuyền trưởng phải đưa anh về xuôi không chỉ vì nhà tàu còn nợ anh chiếc vé giường nằm mà họ còn biết rõ quan hệ ruột thịt của anh với hãng tàu thủy Caribê.

Chuyến tàu xuôi đi chưa hết sáu ngày, Phlôrêntinô Arixa thấy như đã ở nhà mình rồi. Khi con tàu đi vào hồ Mexidết trong một buổi đêm về sạng và anh nhìn thấy ánh sáng lập lòe chơi vơi của những thuyền chài đang dập dềnh trên sóng nước. Trời hãy còn tối lắm khi con tàu màng vào cảng Eđinhô Pecđiđô, bến cuối cùng của lộ trình còn cách vịnh những chín dặm trước khi người ta nạo vét và thiết lập đường trung chuyển từ đó đến vịnh. Các hành khách cần phải đợi đến sáu giờ sáng để lên một đoàn thuyền nan sẽ đưa họ về thành phố. Nhưng Phlôrêntinô Arixa háo hức muốn về nhà sớm hơn nên từ rất sớm anh đã trèo lên chiếc thuyền của bưu điện. Những người phục vụ trên thuyền này chơi thân với anh, coi anh như người nhà và đã đồng ý cho anh đi nhờ. Trước khi rời tàu anh đã làm một hành động có tính cách tượng trưng ném xuống sông chiếc giường dã chiến, rồi anh nhìn theo nó trôi nổi bềnh bồng trong ánh đèn thắp sáng trên những chiếc thuyền đánh cá cho đến khi nó ra khỏi hồ rồi mất hút trong đại dương. Anh tin chắc rằng mình sẽ không bao giờ dùng đến nó. Không bao giờ, vì không bao giờ anh rời bỏ thành phố của Phecmina Đaxa.

Vào lúc trời rạng sáng mặt vịnh phẳng lặng như gương. Qua làn sương mù nổi trên mặt vịnh, Phlôrêntinô Arixa nhìn thấy tháp chuông Nhà thờ lớn được nhuộm trong ánh bình minh, nhìn thấy những chuồng bồ câu trên sân thượng các nhà cao tầng rồi theo chúng anh đưa mắt tìm dinh thự Mackêt dê Casaduerô là nơi anh đoán rằng người đàn bà của nỗi bất hạnh của mình còn đang ngủ đầu gối bên vai người chồng như ý. Dự đoán ấy cào xé lòng anh nhưng anh chẳng làm gì để ngăn nó lại, mà ngược lại hoàn toàn: anh còn vui trong nỗi đau của chính mình. Nắng bắt đầu gay gắt khi con thuyền bưu điện rẽ lối giữa những chiếc thuyền buồm đã được neo lại, nơi đủ thứ mùi hôi hám của cái chợ thành phố hòa quyện với cái mùi thối của những thứ rữa nát dưới đáy nước để làm thành một thứ mùi duy nhất: mùi khẳn lặn. Con tàu Riôacha cũng vừa tới và các đội bốc vác ngâm người trong nước ngang thắt lưng đang đón và đưa khách từ tàu vào bờ. Phlôrêntinô Arixa là người đầu tiên từ trên thuyền bưu điện nhảy lên bờ và kể từ lúc ấy trở đi anh không cảm thấy mùi khẳn lặn của vịnh biển mà chỉ cảm thấy hơi hướng Phecmina Đaxa trong không khí thành phố. Trong tất cả mọi thứ anh đều ngửi ra mùi của cô gái.

Anh không trở lại làm việc ở phòng điện báo. Mối bận tâm duy nhất của anh là những cuốn chuyện tình và những tập thơ thuộc tủ sách Bình dân do mẹ anh vẫn tiếp tục mua cho và đó là những cuốn sách anh nằm trên võng đọc đi đọc lại tới mức thuộc lòng. Anh không hề hỏi cây đàn viôlin hiện đang nằm ở đâu. Anh nối lại quan hệ với những người bạn thân nhất và thỉnh thoảng anh lại đi chơi bi-a hoặc nói chuyện với họ tại các quán cà phê ngoài trời bên dưới những mái vòm thuộc Quảng trường Nhà thờ lớn, nhưng không bao giờ anh trở lại các phòng khiêu vũ ngày thứ bảy vì anh không thể khiêu vũ khi không có cô bạn gái ở bên cạnh.

Ngay chính buổi sáng về đến nhà anh được tin Phecmina Đaxa đang hưởng tuần trăng mật ở châu Âu và với trái tim đập dồn dập anh nghĩ rằng cô sẽ sống ở bên ấy nếu không phải mãi mãi thì cũng trong nhiều năm. Chính ý nghĩ này tiêm nhiễm vào tâm hồn anh những hi vọng đầu tiên về sự lãng quên. Anh nghĩ đến Rôsanba mà những kí ức về cô này ngày càng nóng bỏng hơn trong khi những kí ức khác ngày một mờ nhạt đi. Thời kì này anh để bộ ria mép vểnh lên hai bên và suốt đời anh không cạo đi và anh thay đổi cách thức ăn diện. Ý nghĩ cho rằng có thể lấy đam mê thế tục thay cho tình yêu thơ mộng của anh với Phecmina Đaxa đã dẫn anh đến những con đường không định trước. Hơi hướng Phecmina Đaxa trong tâm hồn anh dần dần thưa nhạt đi để cuối cùng chỉ còn đọng lại trong mùi hoa bạch trà.

Anh đang mất phương hướng không biết nên bắt đầu cuộc sống của mình từ chỗ nào thì bà quả phụ Naxarê nổi tiếng đã đến với anh trong một đêm chiến tranh. Đó là thời tướng khởi nghĩa Ricacdô Gaităng Obêxô vây thành phố. Nhà bà quả phụ Naxarê bị một viên đại bác phá sập và bà hoảng hốt chạy đến nhà anh. Tranxitô Arixa là người nắm lấy cơ hội thuận lợi này và đưa bà quả phụ sang ngủ ở phòng con trai với lí do phòng ngủ của mình chật chội nhưng trên thực tế bà hi vọng rằng một tình yêu khác có thể chữa lành tình yêu nhiều nhức nhối và day dứt không để cho con bà sống bình thường. Phlôrêntinô Arixa không làm tình kể từ sau hôm anh bị Rôsanba cướp mất tân ở trong phòng giường nằm trên tàu thủy và anh cảm thấy rằng mình nằm ngủ trên võng còn bà quả phụ nằm trên giường như trong một đêm có biến cố xảy ra là chuyện rất thường tình. Nhưng bà quả phụ đã quyết chí chung chăn gối với anh trong đêm ấy. Bà ngồi ngay ở mép giường trong lúc Phlôrêntinô Arixa đã nằm xuống võng còn chưa biết nên làm gì. Bà ta bắt đầu nói về nỗi buồn không thể an ủi của mình vì người chồng chết cách đây ba năm. Trong khi nói bà ta cởi phăng và ném đi bộ váy của bà góa, rồi cởi tiếp những thứ khác cho đến khi trên người không mang gì ngay cả chiếc nhẫn cưới. Bà cởi chiếc áo chui đầu may bằng vải lụa và ném nó nằm gọn trên chiếc ghế dựa ở tận xó nhà, bà kéo ngược qua vai chiếc nịt vú rồi ném nó sang giường bên kia. Chỉ thoắt một cái, bà cởi xong chiếc váy ngắn đến tận háng và chiếc váy lót may vải đăng ten, rồi đôi tất lụa đen. Bà vất bừa bãi chúng xuống sàn nhà cho đến khi căn phòng mù mịt bay thứ bụi bặm lâu năm trên người bà phả ra. Bà làm rất ồn ĩ và đôi lúc có ý ngừng nghỉ nhưng là sự ngừng nghỉ có tính toán, dường như mỗi cử động của bà đều được chúc mừng bởi từng phát đại bác của quân tấn công làm rung chuyển thành phố tới tận nền móng từng ngôi nhà. Phlôrêntinô Arixa định bụng cởi giúp bà chiếc trâm nhưng bà ta đã kịp cởi nó ra trước anh với một thủ thuật khéo léo bởi vì trong năm năm quen với cuộc sống vợ chồng bà đã rèn luyện để tự mình làm lấy trong mọi bước đi cần thiết của tình yêu kể cả lời mời chào mà không cần một ai giúp đỡ. Cuối cùng, bà cởi đến chiếc xi-lip may vải đăng ten: bằng một động tác nhanh nhẹn của một nữ vận động viên bơi lội bà cho nó trước theo hai đùi. Thế là bà hoàn toàn khỏa thân.

Bà đã ở tuổi hai mươi tám và ba lần sinh nở nhưng tấm thân lõa lồ của bà vẫn giữ nguyên vẻ kiều diễm của cơ thể gái đang thì chưa chồng từng khiến người chiêm ngưỡng phải bàng hoàng. Có lẽ Phlôrêntinô Arixa không bao giờ hiểu được làm sao một số bộ váy áo xưng tội lại có thể che giấu những thôi thúc bên trong của con ngựa cái đang thì phóng đãng kia, người háo hức khỏa thân trước mắt anh như đã không thể làm điều đó với người chồng để ông ta không nghĩ mình là kẻ trác trụy. Anh nghĩ rằng bà ấy đang định bằng cú tấn công này sẽ thỏa cơn khao khát lâu ngày phải kiêng cữ để chịu tang. Bà làm tình với vẻ hoảng hốt và ngây thơ của người sống tuyệt đối trung thành với người chồng. Trước đêm ấy và kể từ cái giờ sung sướng mẹ bà sinh ra bà, chưa bao giờ được nằm chung một giường với một người đàn ông nào khác ngoài người chồng đã quá cố.

Bà không cho phép mình tự ân hận để không được hưởng niềm khoái lạc. Ngược lại hoàn toàn. Bị mất ngủ vì những quả cầu lửa gầm rít bay qua nóc nhà, bà nằm miên man nghĩ về những đức tính tuyệt vời của người chồng cho đến rạng sáng ngày hôm sau mà không hề lên án ông thiếu lòng chung thủy; chết mà không mang theo bà, rồi bà yên lòng với ý nghĩ sáng tỏ rằng chưa bao giờ như lúc này bà hoàn toàn thuộc về ông, người đang nằm trong áo quan được mười hai chiếc đinh sắt dài ba gang tay đóng chặt lại và ở sâu dưới lòng đất những hai mét.

– Em rất là hạnh phúc, – bà nói – vì chỉ lúc này em mới biết chắc chắn rằng anh đang ở đâu khi anh vắng nhà.

Đêm ấy bà nhanh chóng cởi bỏ tang phục mà không cần qua bước chuyển tiếp phải mặc những chiếc áo blu màu ghi xám và cũng từ đêm ấy trở đi cuộc đời bà chan chứa những bản tình ca và sặc sỡ những bộ váy áo nhiều màu thêu những chú vẹt đuôi dài và những con bướm, và bắt đầu chung chia niềm hoan lạc với bất kì người đàn ông nào yêu cầu bà. Quân đội của tướng Gaităng Ôbêxô bị đánh bại phải tháo chạy sau sáu mươi ba ngày bao vây thành phố. Nhờ vậy bà quả phụ Naxarê xây dựng lại ngôi nhà bị đạn pháo bắn sập, làm cho nó một sân hiên tuyệt đẹp có tầm cao trên tầm đê biển để nhìn thẳng ra mặt biển và đó là nơi trong những ngày giông tố người ta nhìn thấy rõ biển nổi khùng trong những đợt sóng điên cuồng. Đó chính là tổ ấm tình yêu của bà, như lời bà tuyên bố, và là nơi bà tiếp người đàn ông hợp với sở thích của mình, khi bà muốn và như bà muốn, và chẳng bao giờ bà nhận của ai dù chỉ một đồng tiền mọn bởi vì bà cho rằng những người đàn ông mới là những người làm ơn cho mình. Trong những trường hợp đặc biệt lắm bà mới nhận quà tặng nhưng với điều kiện nó không phải là vàng và đó là cách làm hết sức linh hoạt đến mức không ai có thể đưa ra một bằng chứng chứng tỏ lối sống lạ lẫm của bà. Chỉ một lần duy nhất bà suýt bị vạ khi có tin nói rằng đức giám mục Đantê đê Luna không chết vì ngộ độc khi ngài ăn một đĩa nấm hái nhầm bởi vì bà đã đe dọa sẽ chặt đầu ngài nếu không bỏ các cuộc bao vây nhà bà một cách láo xược. Không một ai hỏi bà xem điều ấy có đúng thế không, cũng chẳng bao giờ bà nói về điều ấy và bà chẳng hề thay đổi gì trong cách sống của mình. Theo như lời bà nói trong lúc cười ngặt nghẽo, bà là người phụ nữ tự do duy nhất của tỉnh này.

Bà quả phụ Naxarê chẳng bao giờ sai hẹn với Phlôrêntinô Arixa ngay cả trong những ngày bận túi bụi, bà làm tình với anh không có ý định yêu anh cũng chẳng mong được làm người yêu của anh dù lúc nào bà cũng nuôi hi vọng sẽ gặp được một cái gì đó gần giống như tình yêu nhưng sẽ không có các vấn đề cần phải giải quyết của tình yêu. Đôi lúc anh là người đến với bà và thế là cả hai người đều thích thú ngồi ở sân hiên nhìn ra mặt biển mặc cho hơi nước thấm đẫm người để ngắm nhìn buổi bình minh rạng rỡ chân trời. Anh say sưa dạy bà các trò khêu gợi nhục dục mà qua khe hở vách phòng anh từng nhìn thấy những người khác làm trong buồng kín hộp đêm, cũng như những kiểu chơi có tính lí thuyết từng được Lôtariô Tugut rao giảng trong những đêm nhậu nhẹt say sưa của ông. Anh nựng để bà cho mình ngắm khi làm tình, để bà thay đổi tư thế phù hợp với các kiểu chơi đến nỗi tí nữa thì mất mạng vào lúc dây võng đứt khi cả hai người định sáng tạo ra một kiểu chơi tân kì hơn ngay trên chiếc võng ấy. Đó là những bài học không mang lại hiệu quả. Bởi vì thực ra bà ta là một học trò nhút nhát lại thiếu năng khiếu để làm tình theo ý định. Chẳng bao giờ bà hiểu được những khoái cảm đê mê ở trên giường và bà cũng chẳng có lấy một khoảnh khắc cao hứng, và niềm phấn khích của bà thường là không đúng lúc và bệnh hoạn, bà chỉ là một thứ bụi nhạt nhẽo và buồn tẻ. Phlôrêntinô Arixa sống khá lâu trong sự lừa phỉnh mình là người duy nhất của bà ta và bà ta tự lấy làm sung mãn thấy anh tin điều đó cho đến khi bà ta gặp chuyện không may: nói mơ trong khi ngủ, anh đã khôi phục được bức thư bơi trong giấc mơ của bà và cứ thế anh len lỏi vào vô vàn những đảo nhỏ trong cả cuộc sống riêng tư của bà. Nhờ vậy mà anh biết được rằng bà không có ý định kết hôn cùng anh nhưng bà thấy mình gắn bó với cuộc đời của anh bởi ân huệ lớn lao: anh đã làm chủ bà. Rất nhiều lần bà ta nói:

– Em yêu anh vì anh đã làm cho em lại biết yêu say đắm.

Nói khác đi, bà không thiếu lí do để mà nói thế đâu. Phlôrêntinô Arixa đã cướp đi của bà ta cái trinh nguyên của một đôi vợ chồng hòa thuận mà trên thực tế nó còn nguy hiểm hơn cái trinh nguyên vốn có từ khi cha mẹ sinh ra và cuộc sống chay tịnh của một người đàn bà góa bụa. Anh đã dạy cho bà biết rằng không một việc làm với nhau nào ở trên giường lại là vô đạo đức nếu nó góp phần gợi nhớ đến tình yêu. Kể từ lúc ấy có một cái gì đó đã trở thành lẽ sống của bà: anh đã thuyết phục bà rằng một người sinh ra trên đời này với một lượng hạt bụi nhất định và kẻ nào không dùng chúng vì những lí do nào đấy, thiết thân hoặc xa lạ, tự nguyện hay bị cưỡng bức, thì mãi mãi đã để mất cuộc đời mình rồi. Chiến tích của bà là đã chăm chú nghe anh không để sót lời nào. Tuy nhiên, vì tin rằng mình hiểu bà hơn ai hết, Phlôrêntinô Arixa đã không hiểu vì sao một người đàn bà giàu những cử chỉ dễ thương của trẻ thơ nhưng khi nằm trên giường với người tình lại luôn miệng nói về người chồng đã quá cố, người đàn bà ấy lại có sức hấp dẫn đến như vậy. Lời giải thích duy nhất đến với anh là không một ai có thể nói ngược lại được, đó là đối với bà quả phụ Naxarê anh là người thừa trong tình cảm âu yếm nhưng lại là người cần có, trong nghệ thuật ái tình. Những lần gặp nhau của họ bắt đầu thưa nhạt dần, phần vì bà ta ngày càng mở rộng vương quốc ái tình của mình, phần vì anh tận dụng những kinh nghiệm của mình để đi tìm niềm an ủi cho những nỗi đau cũ trong trái tim rộng mở của những người đàn bà khác, vì thế họ đã quên nhau mà chẳng hề đau khổ.

Đó là mối tình giường chiếu đầu tiên của Phlôrêntinô Arixa. Nhưng đáng lẽ anh cùng bà xây dựng cuộc sống chung bền chặt như điều bà Tranxitô Arixa mong muốn, thì cả hai người đều lợi dụng mối tình ấy để lao vào cuộc sống. Phlôrêntinô Arixa đã phát triển các phương pháp dường như vô lí ở một người đàn ông như anh, đã lầm lì ít nói lại gầy gò xanh xao, và hơn nữa ăn mặc thì lỗi thời y hệt một cụ già. Tuy nhiên anh lại có hai thế mạnh, một là con mắt tinh tường nhận ra ngay người đàn bà đang cần anh, dù ngay trong giữa đám đông anh vẫn tán tỉnh cô ta một cách thận trọng vì anh cảm thấy rằng không có gì đáng xấu hổ hơn và đáng nhục nhã hơn là việc mình bị từ chối. Thế mạnh thứ hai của anh là các cô nhận ra ngay anh là một kẻ cô đơn cần đến ái tình, một gã ăn mày ngoài đường với cái vẻ bẽn lẽn của một con chó bị đòn sẵn sàng phục vụ các cô không điều kiện: anh không đòi hỏi gì và họ cũng chẳng hi vọng gì ở anh ngoại trừ lòng thanh thản của lương tri là mình đã gia ơn cho anh. Đó chính là những vũ khí duy nhất của anh và bằng những vũ khí này anh đã thực hiện các trận đánh lịch sử nhưng được hoàn toàn giữ kín và được ghi lại một cách bền bỉ trong một cuốn vở mật mã được rất nhiều bạn bè biết tới dưới một cái tên đã nói lên đầy đủ: “Các cô ấy”. Câu chuyện được ghi chép đầu tiên và câu chuyện về bà quả phụ Naxarê. Năm mươi năm sau, khi Phecmina Đaxa góa chồng và được tự do ở ngoài mọi trói buộc, Phlôrêntinô Arixa đã có khoảng hai mươi nhăm cuốn sổ ghi lại sáu trăm hai mươi cuộc tình duyên liên tục, chưa kể đến vô vàn những mối tình chớp nhoáng không đáng ghi lại.

Sau sáu tháng quan hệ luyến ái tự do với bà quả phụ Naxarê, chính Phlôrêntinô Arixa đã đi đến kết luận rằng anh có thể chiến thắng cơn giông tố do Phecmian Đaxa gây ra cho anh. Không những anh tin mà anh còn bình luận với bà Trantixô Arixa vài lần trong suốt hai năm liền khi Phecmina Đaxa cùng chồng đang du chơi ở bên châu Âu. Anh vẫn tin điều ấy cho đến một ngày chủ nhật bất hạnh anh bỗng nhìn thấy cô vịn tay chồng từ trong Nhà Thờ lớn bước ra trong sự vây bọc của đám người hiếu kì đang tung ra những lời tán tụng về thế giới mới của cô. Các bà thuộc giới quyền quý từng coi khinh và dè bỉu cô vì cô là một kẻ ngụ cư không danh tiếng, nay đã thay đổi thái độ đối với cô bởi vì cô cảm thấy mình là một mệnh phụ trong giới các bà mệnh phụ và chính cô đã làm cho họ cảm động trước niềm vui của cô. Cô đã làm chủ được thân phận một người vợ thế tục với bao bản lĩnh của mình đến mức Phlôrêntinô Arixa phải suy nghĩ một lúc mới nhận ra cô. Phecmina Đaxa hoàn toàn khác xưa: bộ váy áo của người lớn tuổi, đôi giày cao ống, chiếc mũ có đính vài chiếc lông chim màu sắc sặc sỡ của giống chim phương Đông, tất cả những thứ trang sức cô mang trên người hoàn toàn khác xưa và rất tự nhiên như thể cô mang chúng ngay từ khi còn bé. Anh thấy cô trẻ hơn, đẹp hơn bao giờ hết, nhưng không bao giờ cô có thể trở lại son trẻ như xưa được, anh vẫn chưa hiểu lí do vì sao lại như thế cho đến khi nhìn thấy cái bụng lùm lùm dưới áo lụa: cô đã có mang sáu tháng. Tuy nhiên điều anh cảm động hơn cả là cô và người chồng là một đôi vợ chồng đôi lứa xứng đôi đáng được khâm phục và cả hai đang điều khiển thế giới với biết bao linh hoạt đến mức dường như họ đang lướt trên những khó khăn của thực tế. Phlôrêntinô Arixa không thấy ghen cũng chẳng thấy giận mà chỉ cảm thấy tự khinh bỉ chính mình. Anh thấy mình nghèo, xấu trai, thấp hèn và không chỉ không xứng đôi với cô mà còn không xứng đôi với bất kì người đàn bà nào trên mặt đất này.

Trước
image
Chương 21
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!