Quan Trừng

Thịnh Đường – Chương 25
Trước
image
Chương 25
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
  • Chương 56
  • Chương 57
  • Chương 58
  • Chương 59
  • Chương 60
  • Chương 61
Tiếp

Ngoài chính điện chùa Tây Minh, chúng tụ tập, đối mặt với lưỡi đao của hơn mười người Đột Quyết chĩa vào, đều run lẩy bẩy, lúc này trong lòng sợ hãi, hoàn toàn không bình tĩnh tự kiềm chế cho được, có lẽ còn đang thầm mắng: Biết tụng nhiều kinh hơn nữa thì có ích lợi gì!

Kẻ cầm đầu tự xưng là A Sử Na Đa Lộc, là con sói cao quý trên thảo nguyên, trúc trắc chắp tay làm lễ với Thành Trí. Bởi Đột Quyết nội loạn phân tranh không dứt nên đại khái gã cũng chỉ còn dư lại từng bấy tùy tùng. Chẳng biết hay tin từ đâu, cả đêm lẻn vào Trường An, đặc biệt “thành tâm” đi cầu Vô Thượng Mật Pháp có thể giải trừ đau khổ, vượt qua sinh tử trong lời đồn.

Sắc mặt Thành Trí tái mét, chắp tay đứng ngoài cửa điện, không hé răng nửa lời. Người Đột Quyết cao to vạm vỡ hơn người Trung Nguyên rất nhiều, cũng càng thêm thô bỉ. Đánh đổ lư hương lớn đang nghi ngút khói nhanh đặt trước chính điện, khói mù lửa bén, không khỏi làm người ta sặc nghẹn. Trúc Hàn và chúng đệ tử dịch kinh thân truyền của Thành Trí đều mặc áo huyền, đứng bất động bên cạnh, mặt không gợn sóng. Có tiểu tăng nghe tiếng chạy tới, bận hải thanh vàng gừng, gương mặt non nớt sợ hãi, chẳng dám đến gần.

Giọng A Sử Na Đa Lộc khàn khàn, nói tiếng Hán chẳng mấy lưu loát, “Cao tăng, Đa Lộc khốn khổ vì bệnh ho đã lâu, hơn nữa hiện nay trong gia tộc thường xuyên nội loạn, mong tiết lộ Vô Thượng Mật Pháp cho ta biết.”

Gã chịu bệnh tật khốn khổ nhiều năm, lại sợ bị giết trong chiến loạn, có lẽ đã làm ác quá nhiều nên thiên thần Đằng Cách Lí không che chở cho gã nữa, bèn gửi hi vọng vào Phật pháp phù hộ.

Quả thực có phần buồn cười.

Thành Trí gật đầu, rốt cuộc cũng mở miệng, giọng cũng vô cùng không vui: “A di đà phật, thí chủ, Mật pháp hoàn toàn không chữa được bệnh dữ, càng không phải linh dược bất tử. Tất thảy vô thường chẳng qua là…”

Người Đột Quyết không có kiên nhẫn dây dưa thiện ngữ với ông, thấy ông không nói, bèn vào chính điện. Trong chính điện đặt một chiếc bàn rộng, trên bàn toàn là những đoạn kinh văn đang dịch, chính giữa là bản cuối Thành Trí dùng mực vàng đích thân viết, độ dày đã kha khá.

Lúc này, giấy bút và những cuốn đã đóng thành quyển đang bị tới tấp ném ra. A Sử Na Đa Lộc nhặt bừa vài quyển lên lật xem qua quýt, thấy chỉ toàn chữ Đại Đường, cau mày càng sâu, còn không nhịn được bật ho.

“Lão hòa thượng, ta kính ông gọi ông một tiếng cao tăng thì hãy chớ không biết phải trái.”

Nói đoạn, mấy quyển chú giải đã bị nhét vào lò thiêu, tựa như một miếng thịt sống rơi vào miệng cọp khổng lồ, chớp mắt đã chẳng thừa lại mảnh vụn nào. Trúc Hàn chắp tay, thu hết thảy vào mắt, tim nổi trống, nhưng cũng chẳng phải vì sợ hãi A Sử Na và người Đột Quyết.

Đến khi Đa Lộc cầm bản cuối chế tác tinh xảo nhất nay đã phủ bụi lên, chữ viết của Thành Trí bên trong như văn cáo phó có thể khắc dấu lên bia đá, khiến chàng càng thêm khẩn trương.

Khi ấy Trúc Hàn đã nghĩ gì? Xông lên thế nào? Rõ ràng ngày thường vẫn hay khuyên can A Âm chớ vọng động mà giờ đây, chàng lại không nhịn được vọng động. Tất cả là bởi nhớ đến lời Thành Thiện dặn dò trước lúc lâm chung – chuyện đã từng khiến chàng và A Âm mâu thuẫn không vui một khoảng ngắn mà đến chết chàng cũng không thể nói rõ cho A Âm.

Trước khi Thành Thiện tọa hóa đã cầm tay chàng, nói liên miên mình hợp duyên với chàng thế nào, lại đối đãi với chàng như con như cháu thế nào, Trúc Hàn đều biết. Người sắp chết, dường như trong nháy mắt càng thêm thấu tỏ, vô cùng thản nhiên, chỉ có duy nhất một ước nguyện, chính là dặn đi dặn lại Trúc Hàn nhất định phải thành tâm dịch kinh, ấy là nghiệp lớn. Dịch kinh xong rồi, nếu lòng vẫn hướng về hồng trần như trước, sư phụ ở nơi cửu tuyền cũng ắt yên lòng chấp nhận…

Bước lên trước, Đa Lộc cũng chẳng ngờ rằng, trong sân chỉ toàn sư tăng nhát gan, vậy mà lại có một kẻ dám can đảm ra mặt, phân tâm một chớp mắt, bị chàng giật lấy kinh thư. Trúc Hàn ôm trong ngực, đối mặt với thần sắc tức giận của Đa Lộc.

Thành thật mà nói, khi chàng cầm dao găm đối mặt với sinh linh bé nhỏ cũng cảm thấy rất sợ, nhưng bây giờ lòng hoàn toàn không sợ. Có lẽ chàng đã bị A Âm đồng hóa, chấp niệm quá sâu; hoặc giả là vì yêu nên không biết sợ, quả thực to gan.

Mà chúng tăng hoặc vì lời đồn khắp thành, hoặc vì thầm phạm đố kị mà “cô lập” Trúc Hàn, không một ai dám tiến lên. “Kim cang đỉnh kinh” và Mật tông vô cùng quan trọng, sẽ trở thành luật điển căn cơ, nhưng vậy đã làm sao? Nói là nhìn thấy sinh tử, nhưng liên quan đến tính mạng của bản thân thì làm sao nhìn thấu cho đặng? Đệ tử nhà Phật cũng chẳng ngoài như thế.

Đám Đa Lộc lập tức cho rằng bí ẩn nằm trong quyển kinh thư chưa hoàn thành này, càng thêm hưng phấn, lúc này, ngoài cửa chùa, Kim Ngô Vệ đột ngột xông vào, trước đại điện ầm ĩ nhốn nháo. Đó là một đêm đặc biệt hỗn loạn, tiếng sư tăng đứt quãng kêu rên, tiếng nhang cháy lách tách trong lư hương, tiếng người Đột Quyết cùng đường rống giận…

Trúc Hàn ôm kinh thư trong ngực, chuẩn bị chạy tứ tán theo các sư tăng khác, nhưng chàng chợt quay đầu lại, một cái quay đầu mềm lòng: Thành Trí mặt đầy nếp nhăn, mu bàn tay chắp lại lốm đốm dấu mồi, bước chân chậm chạp, bị một đám học trò bạc tình bỏ rơi trước mặt sinh tử, đúng là người đáng thương.

Tim Trúc Hàn run lên, không chút lưỡng lự xoay người lại, đỡ tay Thành Trí, hơn nửa người che chở cho ông, đi về phía hậu viện.

Chàng coi như là người trẻ nhất trong đám sư sãi mới rồi, nhưng hải thanh bận trên người thì lại cùng màu, ắt hẳn bất phàm. A Sử Na Đa Lộc được thuộc hạ bảo vệ, gào lên với chàng, “Đưa kinh thư cho ta!”

Trúc Hàn không quay đầu lại, cúi đầu đi theo nhịp bước của Thành Trí. A Sử Na Đa Lộc và bọn thuộc hạ cùng đường bí lối buổi chiều hôm đều dán mắt vào Trúc Hàn, sau đó, lưỡi đao thứ nhất tưởng rằng chàng là thủ lĩnh cắm vào từ sau lưng…

Đao thứ hai, đao thứ ba… Lại rút ra.

Chỉ cảm thấy đau thật đấy.

Lưỡi đao xuyên ra trước ngực, máu huyết đỏ tươi ròng ròng chảy ra, thấm ướt kinh thư trong ngực, may mà viết bằng mực vàng, đại khái hong khô rồi vẫn xem rõ được.Tay Thành Trí run rẩy, trơ mắt nhìn chàng ngã xuống, tiếp đó, Kim Ngô Vệ vây lấy, người Đột Quyết bị bắt.

Bách tính trong thành Trường An mệt nhọc cả một ngày, đều mải miết về nhà, không ai ngẩng đầu trông về hướng chùa Tây Minh đang có thế lửa bị gió thổi mỗi lúc một lớn; mà A Âm thì đang nhận lấy bánh đậu khô gói bằng lá cây, mắt mày dịu dàng nói với cụ bà kia một câu “Cảm ơn cụ ạ”; đôi bạn tốt Dược Xoa và Chướng Nguyệt đang cùng uống rượu dưới ánh trăng trong rừng, lảm nhảm buôn chuyện quỷ bàn chuyện người.

Khoảnh khắc cuối cùng ấy, Trúc Hàn dùng hết sức lực toàn thân siết chặt kinh thư trong tay, chàng nghĩ đơn giản thế này: “Kim cang đỉnh kinh” đã dịch được hơn nửa, A Âm chờ lâu như vậy, sao có thể làm lại từ đầu. May quá, may mà chàng bảo vệ được, cơ mà phải chép lại một bản khác rồi…

Thành Trí lẩy bẩy quỳ xuống bên cạnh chàng, nhìn miệng Trúc Hàn mấp máy, hơi thở mong manh, tiếng cuối cùng nói là “A Âm”, còn đưa cuốn kinh dính đầy máu qua… Lời còn chưa dứt, nước mắt trượt qua cặp mắt không nhắm kịp, muôn phần không cam mà đứt lìa hơi thở cuối cùng.

Chàng hối hận lắm, mối tình đời này tính kĩ ra, cuối cùng vẫn là phụ A Âm.

Tháp cổ trăm năm chùa Tây Minh thành Trường An đã gặp phải tai ương đổ máu vào đêm lập xuân ấy. Sư sãi trong chùa bị thương vô số, nhưng chỉ có một người bỏ mình. A Âm đứng trên xà nhà, gói bánh đậu rơi xuống, đập vào gạch ngói phát tiếng vang dội. Gió đêm hãy còn vương lạnh lẽo tiêu điều, nàng cảm thấy má mình càng lạnh hơn, đưa tay lau, đầu ngón tay thấm ướt.

Ngày kế, trên triều hạ quyết sách: Vùi lấp hoàn toàn chuyện chẳng lấy gì làm quang vinh này xuống. Trúc Hàn sư phụ được hỏa táng trong thầm lặng, phái học sĩ thiện viết chữ nhất trong cung đi sao “Kim cang đỉnh kinh”, hết thảy vết máu trong chùa Tây Minh đều được rửa sạch, mọi vật về nguyên vị trí cũ, sử quan không ghi.

Có một đạo lí muôn thuở không đổi trên cõi đời này, đó là người sống gắng hết sức duy trì vẻ tốt lành mỏng manh ngoài mặt. Nhà nhà đều là như vậy, bên trong có tàn tạ nữa, mặt mũi vẫn phải giả vờ ngay ngắn.

A Âm đứng bất động trên xà nhà cả ngày, nhìn bên dưới người đến người đi, tất cả đều tất bật nhịp bước. Cho đến khi mặt trời ngả về tây, thời khắc chí âm đến, hạc xám bay đi.

Nhóm người Đột Quyết bị giam giữ trong ngục Đại Lý Tự do A Sử Na Đa Lộc cầm đầu chết sạch trong hình dáng dữ tợn, mạch máu nổi hằn, hốc mắt nứt toác. Những phạm nhân còn lại đều điên điên khùng khùng, chẳng thuật hoàn chỉnh được rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, chỉ nói chưa từng thấy con hạc nào hung thần ác sát đáng sợ đến vậy.

Lại có sử quan mất mạng trong nhà, sau đó là hàn lâm học sĩ sao chép kinh phật, nhóm sai dịch chịu trách nhiệm bí mật hỏa táng, vân vân không dứt. Lòng dạ chúng tăng chùa Tây Minh thấp thỏm không yên, đồn đại cũng trông thấy hạc kêu dưới ánh trăng…

Trên một con đường không người trong thành Trường An, Tạ Tất An và Phạm Vô Cứu đuổi riết không tha.

A Âm tử tế khuyên giải: “Đừng ép tôi động thủ.”

Nhưng Diêm Vương bên trên đã ra lệnh, mà lính canh địa ngục cũng đã được điều động, hai người chỉ có thể cứng rắn ngăn trở. Hiện giờ toàn thân nàng đã ngùn ngụt sát khí, giết tiếp chỉ sợ thần trí lệch đường, triệt để hóa thành lệ quỷ.

Cuối cùng, Chung Quỳ đích thân tới, từ trong hồn trùy vung ra xích sắt trói nàng lại, giải về địa phủ. Phen này Diêm Vương nổi giận đùng đùng, theo luật pháp âm phủ, tay nàng dính nhiều mạng người như vậy, phải xuống địa ngục, bị chịu cực hình nghiêm phạt cả ngày lẫn đêm, giam cầm suốt đời cho đến chết.

Dược Xoa vội chạy tới âm ti, quỳ xuống cầu xin Diêm Vương, được cho vào trong mật đàm.

A Âm đi một lượt qua mười tám tầng địa ngục, bị giày vò trùng trùng, không ngoài binh đao sát thương, lửa lớn cháy bỏng, băng lạnh tuyết cóng, hố khe hun hút… Dầu cho nàng từng đau khổ cô quạnh góp nhặt âm thọ hơn năm trăm năm, kết thúc trận này mới coi như nhặt về cái mạng, chì chừa lại một hơi cuối cùng.

Vốn còn phải bị giam cầm vô thời hạn, may mà được Dược Xoa xin cho, lại có Chướng Nguyệt hòa giải trung gian, kí khế ước quỷ sai với Diêm Vương, mới ra được âm ti.

Chùa Tây Minh, di vật của Trúc Hàn biến mất khó hiểu, trụ trì Thành Trí mang bệnh, vẫn gắng gượng giám sát dịch kinh ở đại điện.

Sau khi tỉnh lại, A Âm đau nhức cả người, gượng dậy muốn xuống giường, nàng còn chưa giết xong. Vệ doanh Kim Ngô ứng cứu chậm trễ, gác canh thủ thành lơ là cương vị, đều đáng giết, cũng đáng chết không được tử tế.

Dược Xoa nghe tiếng đi vào, “Cô còn muốn làm gì?”

Giọng nàng khàn đục không ra làm sao, lại không mở miệng đã lâu nên khó nghe vô cùng: “Còn chưa giết đủ.”

“Cô tỉnh táo lại đi được không? Vì giữ cho cô cái mạng quỷ này mà ta quỳ cả đêm ở điện Diêm Vương, Chướng Nguyệt cũng phải hạ mình ra mặt xin tha, vì một hòa thượng đã cạn thọ mà cô phải phát điên phát rồ không ngừng nghỉ lên thế này?”

“Mi câm miệng!” A Âm khản giọng gầm lên, nhưng chỉ được một tiếng này rồi lại mất hết sức lực, khàn khàn nói: “Ta xin mi đừng nói nữa…”

“Ta nhắc nhở cô bao lần rồi, chuyện cô làm trong mắt người phàm là đi ngược lại với đức hạnh, hắn ắt sẽ chết không tử tế…”

Nàng vớ lấy chung trà trên bàn thấp bên sập, không chút lưu tình ném về phía Dược Xoa, “Ta bảo mi câm miệng… Cút ra ngoài…”

Hắn xách từ trên tủ cạnh cửa lên một hộp gỗ đàn, dằn mạnh xuống bên mép sập, tức tối xoay người bỏ đi.

A Âm ý thức được đó là cái gì, run rẩy đưa tay mở nắp, mùi đàn hương quen thuộc, hai tấm áo tăng một huyền một chàm, đều là cái A Âm yêu thích. Chuỗi tràng hạt một trăm linh tám viên gỗ tử đàn từng đứt dây vào cái ngày nàng quay về tìm chàng sau mười năm; còn có mấy tờ giấy tùy bút từng viết, chữ trong đó từ kinh văn “Tất thảy pháp hữu vi” ban đầu, dần biến thành kín giấy “A Âm”, chẳng biết là chàng viết khi nào. Dưới cùng còn có một cái chén không thể quen thuộc hơn, hoa văn quỷ quái trên thân vẫn sinh động như cũ, nàng chưa từng ngờ được Trúc Hàn sẽ cẩn thận cất giữ nó.

Suy nghĩ đến đây, trong lòng vô vàn khổ sở, chàng ở nhân gian hai mươi năm mà chân chính lại chỉ có mấy món đồ ít ỏi này.

Lúc Chướng Nguyệt cầm một bát mắt thú vào cửa, A Âm đang ôm áo tăng khóc không thành tiếng, nước mắt thấm áo ướt dầm dề, hệt như bộ áo huyền bị hỏa táng theo Trúc Hàn, dính máu cũng chẳng nhìn ra. Hiện giờ nàng chỉ cảm thấy mình dung hợp với thân thể này càng thêm hoàn mĩ, trái tim như bị móng tay nhọn của bà La Sát gảy nghịch, hít thở vô cùng khó khăn.

“A Âm, ăn thôi.”

Nàng nghe tiếng ngẩng đầu, trán có tóc con rũ rượi, sắc mặt ảm đạm, mắt đỏ ngầu đáng sợ.

Thấy nàng không trả lời, cũng không định ăn, Chướng Nguyệt đặt khay sang một bên trước, lấy từ trong túi tay áo ra một sợi thừng đen.

Lòng bàn tay mở ra, sợi thằng bay lên, quấn quanh cổ A Âm, từng chút siết chặt. A Âm buông tấm áo trong tay xuống, hai tay bắt lấy cổ họng như sắp hít thở khó khăn, tiếng thở trở nên vừa nặng vừa chậm, cảm giác đau đớn đang chồng lên tầng tầng.

Đại khái là đau suốt một khắc, nửa chữ cũng nói không ra, lúc ngã xuống sập, nước mắt tuôn ra ròng ròng. Chướng Nguyệt nhìn trong mắt, đau trong lòng, thử đưa tay vỗ về vầng trán túa mồ hôi lạnh của nàng.

“Đây là dây quỷ trói cô.”

Sao A Âm có thể không biết đến dây quỷ, cũng không phải được lĩnh thù lao, nhận che chở như quỷ sai được âm ti tuyển dụng mà là đơn phương kí kết hiệp nghị Diêm Vương chế ước, mỗi ngày đều phải bắt quỷ, giống nô lệ bị ép buộc hơn.

“Bao nhiêu… năm…?”

Ánh mắt Chướng Nguyệt vô cùng nghiêm tục, đáp: “Một ngàn năm.”

A Âm cười khẩy thê lương, “Sao các người… không để tôi… chết đi?”

“Đau khổ vì cái chết của hắn đến vậy?”

“Anh thì hiểu cái gì?” Lệ tuôn như nước xiết, không ngừng chảy dài.

Chướng Nguyệt ngồi lại gần hơn, hai tay nắm lấy vai nàng, đỡ nàng dậy, định chải xuôi đạo lí trong đây cho nàng.

“A Âm, trông cô thế này, Dược Xoa và ta đều rất đau lòng. Đã chịu được cực hình của địa ngục thì điều đó cũng chứng minh mạng quỷ không nên tuyệt, chỉ cần còn sống, sống rồi thì hòa thượng gì mà tìm chẳng ra? Dẫu cô muốn chờ hắn thì cũng phải có mạng mới chờ được chứ? Người phàm chuyển thế đầu thai cũng chỉ…”

Cặp mắt đờ đẫn của A Âm chớp chớp, bỗng ý thức được điều gì, chùi nước mắt ngẩng lên nhìn y: “Anh nói đúng, khi chàng còn sống đã chết vì làm việc thiện, nhất định sẽ có một kiếp sau tốt đẹp, tôi đi tìm Thôi Giác…”

“Cô cho rằng Thôi Giác sẽ nói cho cô biết? Chuyện trong sổ sinh tử sao có thể nói với cô, lần trước cô còn chọc ông ta tức giận với cô, bớt mơ mộng ba cái chuyện hão huyền này đi.”

Những năm tháng sau đó quả thực kìm nén khổ sở, hoặc là nói, từ khi Trúc Hàn chết, nàng chưa từng cảm nhận được một sát na vui sướng nào.

Không đến nửa tháng, A Âm đã gần như khỏe hẳn, chuyện đầu tiên làm là xuống âm ti quỳ ngoài cửa điện Thôi Giác hai ngày hai đêm, ngón tay cào cửa rướm máu, khàn giọng van xin ông ta tiết lộ tung tích chuyển thế của Trúc Hàn. Phán quan mặt trơ như sắt, đóng cửa không ra, công việc không làm, kiên quyết không cho A Âm bất kỳ câu trả lời nào.

Từ đó về sau, mọi người đều biết quỷ âm ma la A Âm cô nương trở thành quỷ sai khế ước duy nhất trong những năm gần đây, đều bảo nhau trông thấy cô gái xinh đẹp cổ đeo dây đen thì nhất định phải tránh đi thật xa. Đồn rằng khi đó nàng đầu óc mê muội, đại sát người phàm, hiện giờ cũng chẳng để tâm việc bắt quỷ, phá phách làm loạn, còn cứ phải rước chuyện lên mình mới chịu được.

Vào đêm hè nóng nhất, Chướng Nguyệt lạnh mặt bắt một hòa thượng đến quán rượu, đưa vào phòng A Âm. Mà nàng thì vừa bắt xong con ác quỷ cuối cùng trong ngày về âm ti, quanh thân hôi hám mệt mỏi, uống rượu với Dược Xoa ở dưới tầng xong thì lên tầng.

Trông thấy cậu hòa thượng run lẩy bẩy kia, ngũ quan thân hình quả thực giống đến bảy phần, nhưng mắt mày hoảng loạn tránh né, chắc chắn không phải người nào đó trong lòng nàng.

Hai mắt người ấy, bất kể nhìn thứ gì cũng đều rất nghiêm túc, dầu rằng có thể trong bụng chàng không thích nhưng vẻ mặt vĩnh viễn chân thành, không ai bì được.

Nàng quá tự kiềm chế rồi, đối mặt với một người giống như vậy mà lại chẳng mảy may rớm nửa giọt nước mắt, thậm chí mở miệng còn lạnh tanh.

“Pháp hiệu của cậu là gì?”

“Tiểu tăng… Trinh Vĩnh…”

Xem đi, tên cũng chẳng giống nhau miếng nào.

Yên lặng hồi lâu, cuối cùng A Âm nhìn vẻ ngoài đó, thở dài: “Cậu đi đi.”

Nàng bắt đầu tự mình cởi quần áo khó ngửi trên thân ra, cậu hòa thượng kia vội vã mở cửa chạy, giữa chừng đụng phải tiểu nhị đang bưng mâm, loảng xoảng không dứt, có phần ồn ào.

Đợi đến khi đã tắm rửa thay quần áo sạch sẽ rồi, A Âm đi ra cầu thang, rít lên với Chướng Nguyệt áo trắng phau phau phía dưới: “Bớt làm mấy chuyện thấp hèn đó đi.”

Bỏ lại hai người một trắng một xanh lúng túng nhìn nhau, chẳng dám lắm lời.

Hôm sau, chùa Tây Minh thành Tây An có nhà sư vụng trộm phá giới với nữ tử bị bắt, sau khi tra hỏi mới biết chẳng ngờ đã được nửa năm; mà quyển chú giải cuối cùng của “Kim cang đỉnh kinh” chỉnh lý xong, Thành Trí liền tọa hóa ngay sau đó, một hồi tiếc thương.

Ban ngày A Âm không có việc gì làm, ở quán rượu nghe những chuyện phiếm tán dóc này, cười nhạt. Không kìm được nghĩ đến lúc nàng định giết Thành Trí khi trước, lão hòa thượng quỳ rạp dưới đất nức nở, khóc vô cùng thê thảm, nói một câu “Có thẹn với sư đệ, có thẹn với Quan Trừng”. Nàng cho ông ta tiếp tục dịch kinh, xoay người đi, hiện giờ chỉ cảm thán một câu Thành Trí giữ lời, tuyệt không sống thêm.

Lại là một dịp tết Trung Nguyên, quỷ giới ăn mừng, chỉ riêng A Âm không nhàn rỗi, cũng chẳng có lòng dạ đâu mà hưởng thụ. Lúc tìm kiếm tiểu quỷ trốn ngục thì gặp được Trần Hoài Bồ đã lâu không thấy.

Hai người sóng vai cùng đi, than thở thời gian như bóng câu qua cửa, thật khiến người ta tiếc hận. Y là người biết nhìn mặt đoán ý, bữa nay gặp A Âm, chỉ cảm thấy mặt mày nàng sụt giảm phong tình đi rất nhiều, thay vào đó là nồng đậm sầu bi.

Tết Trung Nguyên không náo nhiệt bằng tết Thượng Nguyên, được cái thời tiết đẹp, gánh rong trên đường sang sảng rao hàng, nhưng chẳng lọt được vào tai A Âm, cửa lòng nàng đóng kín. Chợt nghe Trần Hoài Bồ mở miệng, bảo nàng đợi tại chỗ, bản thân chen vào đám người, không biết là mua cái gì. A Âm nhìn bóng lưng người đàn ông mặc áo bào cổ tròn, chỉ cảm thấy hình ảnh này như mới chỉ diễn ra đêm Thượng Nguyên vừa qua, nhưng hiện giờ người làm chuyện này đã thay đổi, không phải người kia, tâm cảnh cũng hoàn toàn bất đồng.

Đại khái là có gió thổi qua, mắt hơi ran rát, hai con ngươi ươn ướt hơi nước. Thầm nghĩ nhất định là tại gió, dù sao cũng đã lâu rồi nàng không khóc, cũng cảm thấy chẳng có gì để khóc.

Trần Hoài Bồ chen ra, tay cầm một ống cuộn giấy dầu, đưa tới trước mặt nàng.

Chẳng phải chính là đậu xanh xào Trúc Hàn cũng muốn mua trước kia sao?

Nhón một hạt bỏ vào miệng, vẫn không cảm nhận được mùi vị như cũ, chết lặng nhai rồi nuốt xuống. Trần Hoài Bồ nhìn thần sắc nàng đờ đẫn mà câm nín, muốn mở miệng lại chẳng biết nói gì.

A Âm cảm thấy cổ họng khó chịu, kiềm nén cảm xúc hỏi: “Xin Trần thống lĩnh cho hay, vì sao lại mua đậu xanh cho tôi?”

Nàng quả thực tò mò, trước nay đều cho là Trúc Hàn thích ăn, nhưng hiện giờ hiển nhiên là không phải.

Trần Hoài Bồ cười có phần luống cuống, chậm rãi đáp: “Bận trước ở bỉ phủ, cơm nước chuẩn bị đều là đồ chay, nhưng không ngờ A Âm cô nương lại rất thích ăn đậu xanh. Tất nhiên, đó cũng không phải do tôi phát hiện ra, tại hạ là người thô thiển, may mà Trúc Hàn sư phụ cẩn trọng, nói riêng với tôi là thấy cô gắp nhiều, hẳn là thích… Tôi…”

Như ý thức được mình nhắc đến tên Trúc Hàn, hơi hối hận, định giải thích lại thấy A Âm dứt khoát xoay người, y giữ không đặng.

Quan Trừng ngốc, là đồ ngốc nghếch nhất trên đời, không ai ngốc nghếch hơn được nữa. Nàng bị bà La Sát lấy ngọn lửa lam, làm ảnh hưởng đến vị giác, đến nay chưa lành, sao nếm ra được vị ngon của thức ăn?

Trong lòng hoang hoải, cố nén cảm giác muốn khóc, nàng còn công việc phải làm. Lang thang như cô hồn dã quỷ, chỉ cảm thấy mất đi phân nửa trấn tĩnh, muốn mau chóng rời khỏi phố lớn náo nhiệt khiến người ta hít thở khó khăn này.

Tám dòng lượn quanh Trường An (*), đi qua cầu Vị, bên cầu có mấy người đang thả đèn, còn cao giọng cầu nguyện.

(*) Trường An bát thủy chỉ tám con sông chảy qua thành Trường An gồm Vị, Kính, Phong, Lạo, Quyết, Hạo, Sản, Bá.

Đằng sau có vị nương tử thùy mị lẩm bẩm với đèn sông: “Hà Bá phù hộ cho Tề lang thuận lợi chuyến này, cả nhà sớm ngày trở lại Lạc Châu…”

Nghe rồi thầm trào phúng, bao người chen vỡ đầu cũng muốn tới Trường An phồn thịnh bằng được, cô gái này lại chẳng lưu luyến chút nào. Nghĩ ngợi một hồi, thoáng thất thần. Nàng cũng có cái buồn cười khác người đấy thôi, Trường An đối với A Âm thì có cái gì để mà lưu luyến chứ?

Ngẩn ngơ đi về phía trước, có tiếng bước chân nho nhỏ đuổi theo, miệng gọi: “Tỷ tỷ… Tỷ tỷ áo xám ơi…”

A Âm quay đầu, trước mặt là một thiếu nữ trẻ tuổi vấn búi tóc đôi, thân bận xiêm y vàng tơ vô cùng linh động.

Cô gái đang hổn hển thở gấp, hai tay đưa qua sách quỷ nàng đánh rơi. Đại khái là vì nhặt gấp nên tờ gập tung ra còn chưa được xếp lại ngay ngắn, có phần tán loạn. Nàng cúi đầu nhìn, nhìn thấy tờ trước mắt thì ngẩn ra, lát sau nước mắt rơi xuống.

“Tỷ tỷ, thừng đen trên cổ chị…” Nhìn A Âm thút thít, cô gái hơi bối rối, “Sao lại khóc ạ? Đêm Trung Nguyên là dịp lành tưởng nhớ cố nhân…”

Cách đó không xa truyền tới tiếng vị nương tử mới vừa cầu nguyện gọi: “A Mộng, trời tối rồi, về nhà thôi.”

Thiếu nữ áo vàng rối rắm mãi, không chịu được phía sau giục giã, để lại câu “Tỷ tỷ bảo trọng” rồi chạy khuất bóng.

A Âm ngã xuống đất, ẩn nhẫn suốt mấy tháng nay tuyên bố sụp đổ, lệ vẩy ướt áo.

Tư lự sầu khổ sợ nhất là ngày này mỗi tháng. Người phàm đi đường bình thường đến không thể bình thường hơn cũng sẽ vì lỗ hổng cảm xúc nhỏ xíu mà sụp đổ vào ngày lành này. Người cùng mình vui thích thương nhau rành rành trước mắt, ai mà kiềm chế cho đặng tim đau ruột thắt, trăm mối cách lòng.

Trong cuốn sách quỷ đã lâu không giở ra xem có một trang trống, ở đó có hai chữ “Quan Trừng” nàng viết từ trước đây rất lâu, đại khái là bởi quá nhiều nét nên chữ viết quả thực chẳng lấy gì làm dễ nhìn. Mà bên dưới, không biết chàng đã thêm vào ba hàng tự lúc nào, là rồng bay phượng múa chân chính, chất chứa khí thế ba đào.

Cũng có tình ý miên man

Luyện chữ chăm chỉ

Chớ quên ăn

Quan Trừng

Trước
image
Chương 25
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
  • Chương 56
  • Chương 57
  • Chương 58
  • Chương 59
  • Chương 60
  • Chương 61
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!