Quan Trừng

Dân Quốc – Chương 15
Trước
image
Chương 40
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
  • Chương 56
  • Chương 57
  • Chương 58
  • Chương 59
  • Chương 60
  • Chương 61
Tiếp

Hàn Thính Trúc, người Phụng Thiên, không rõ sinh nhật.

Cha anh là một tay nát rượu, dính vào thuốc phiện, thật sự không phải kẻ tốt lành gì. Mẹ anh bò về từ Quỷ Môn Quan, vất vả mãi mới sinh được một mụn con, nhưng đến cái tên cha anh cũng không đặt.

Còn là do một nhà sư đi ngang qua lấy cho, “Thính Trúc”.

Nhà sư nói đứa bé này tiếng khóc quá lớn, mạng nhất định rất cứng, dễ dính máu tanh, nên lấy một cái tên có liên quan đến nhà Phật. Trúc, không chỉ có ý nước Thiên Trúc mà còn liên quan đến mọi thứ của Phật giáo. Nhà sư còn khuyên cha anh, nhớ nhắc nhở đứa bé học thêm Phật pháp.

Ông nói trúng thật, Hàn Thính Trúc quả thực mạng cứng, nếu như gán chuyện mẹ bị cha đánh chết lên người anh.

Sinh con không khiến bà chết mà chết trong tay người chồng mình coi là trời đất.

Tháng Chín năm Dân quốc 20, quân Nhật ở Quan Đông bị nổ hỏng đường sắt Nam Mãn, mượn cớ giá họa, nổ pháo oanh tạc doanh trại Đại Bắc. Không đến một ngày, Phụng Thiên thất thủ. Cùng lúc ấy cha Hàn Thính Trúc chết tại nhà, Hàn Thính Trúc biệt tăm tung tích.

Anh chạy nạn một đường, chịu bao khổ nhục, đến Thượng Hải.

Thiên đường Viễn Đông của các nhà mạo hiểm.

Gánh hành lí ở bến tàu, làm côn đồ cho người ta, thỉnh thoảng buôn lậu, việc gì cũng làm. Lại thêm khi ấy ở Thượng Hải lưu hành hội đồng hương. Nói là hội đồng hương, thực chất chỉ là tổ chức du côn tranh đoạt địa bàn, bến tàu ban đêm nặng mùi máu, anh cũng tự chọn cho mình một con dao tốt.

Lúc ấy dốc hết toàn lực để sinh tồn, không rảnh xoắn xuýt thiện ác.

Khi đó, đuôi mày Hàn Thính Trúc chưa có sẹo.

Năm thứ hai, gặp Hàn lão. Quả tình cũng khéo. Có người nói cha anh cho anh một cái họ lành, nói anh đi đường vận lớn, không phải nói dối. Nhưng nếu Hàn Thính Trúc có thể lựa chọn, đại khái chỉ hận không thể dùng chút vận may này của mình sang nơi khác, chẳng hạn như với A Âm.

Ngày ấy rất âm u, xe Hàn lão đi ngang qua, dẫn một đám người u ám khiếp người lượn một vòng quanh bến tàu.

Hàn Thính Trúc mặc áo may ô vải thô, tóc bị một tay thợ lừa đảo xén cho ngắn cũn, sờ vào chỉ toàn là gốc tóc, đâm tay châm chích. Anh ngồi trên một chiếc rương không biết là hàng gì, tán gẫu với một tên đoản mệnh.

Không mấy ngày sau, tên đoản mệnh bị người ta chém chết, chết trên đường đi tìm gái. Lúc ấy trò chuyện với Hàn Thính Trúc đã nói chưa từng thấy anh chơi gái bao giờ. Đám lăn lộn bang phái bọn họ ai mà chẳng có bao tiền thì tìm gái hợp giá chừng bấy. Thậm chí không có tiền cũng phải moi ra tiền đi sảng khoái một phen.

Anh mặt lạnh cười cười, dùng mảnh vải quấn lưỡi dao lại, mài sắc quá, cũng không có gì thuận tiện.

“Tôi không chạm vào đàn bà. Các cậu chạm của các cậu thôi, ngày nào đó có khi lại chứng thực thế nào là ‘Trên đầu chữ sắc (色) có lưỡi đao (刀)’.”

Còn anh chỉ cần cây đao trong tay này là đủ rồi.

Hàn lão mệt nhọc một đời vì nợ phong lưu, đoạn mãi không tuyệt với một người phụ nữ. Thuộc hạ tiến lên muốn đánh anh, bi ngăn lại.

Thân hình ông già hơi gầy gò, nói: “Tần đại phú quản lí bến tàu này bị chém chết cách đây mấy ngày, tôi để bến tàu cho cậu trông, có dám không?”

Tuổi trẻ ngông cuồng, không hằn dấu tháng năm cũng không biết thu mình. Anh bạnh mặt, “Dám. Tôi quản lí bến tàu, sau này đừng hòng có ai muốn vẩy máu lên đây.”

Sau đó, bắt đầu có người gọi anh là “Tiểu Hàn Gia”, bởi leo được lên Hàn lão. Ai không phục gây hấn, anh giết; ai cố ý sinh sự, anh giết.

Những năm mới tiếp quản bến tàu quả thực đã thấy rất nhiều máu.

“Mỗi bận đêm sâu người lặng, gió bến tàu rất mặn, ngửi kĩ còn có thể ngửi ra mùi tanh hôi, quả thực buồn nôn. Trong tầm mắt tôi như thực sự chỉ toàn là máu, cũng sẽ hỏi mình có phải chuẩn bị biến thành ma quỷ khát máu vào lúc này không. Hàn Thính Trúc, mày phải tỉnh táo. Tôi cảnh cáo mình vô số lần. Trời cao rủ lòng thương, cho tôi gặp A Âm. Em là ánh đèn rọi soi trong thời khắc đen tối nhất, là chiếc khóa tiên của liệt thần trên trời, trông thấy em, tâm tôi khắc an.”

Có lẽ, kể từ khi Hàn Thính Trúc, kẻ đã nói bừa rằng tuyệt đối sẽ không chạm vào đàn bà, quyết định chạm vào, khoảnh khắc ấy cũng đã định sẵn đến cùng anh sẽ chết.

Ráng chiều, hoàng hôn nơi phố xá sầm uất, chẳng có gì bình thường hơn. Lần đầu tiên Hàn Thính Trúc mua thuốc lá. Trước kia không có tiền thì ké của người khác. Sau khi được Hàn lão cất nhắc lại có người tặng thuốc. Lúc người bán thuốc lá sượt vai ngang qua, anh chợt nhớ ra mình chưa từng mua thuốc bao giờ. Gọi người lại, rất nhiều nhãn hiệu, quả thực không biết mua loại nào. Bên cạnh có người phụ nữ lục thùng áo giặt, anh nghe tiếng nhìn sang, ấy chính là cái người ta gọi là “một ánh mắt lầm lỡ cả đời”.

Thường dùng để hình dung con gái, nhưng Hàn Thính Trúc có thể cảm nhận được.

Đi trên thế gian, mỗi ngày vô số người qua lại, nói không chắc được ai là người tiền kiếp. Nhà Phật giảng về nhân quả, Hàn Thính Trúc không tin nhân quả. Nhưng chỉ giây phút ấy, cảm thấy người trước mắt như đã từng quen biết, lại như anh đã đợi mấy đời, chỉ để gặp lại nàng một lần.

Tay bán thuốc thúc giục, người phụ nữ bận xường xám ôm thùng giặt lại gần, đứng trước mặt Hàn Thính Trúc, đưa tay cầm bao thuốc lá dúi vào tay anh.

Giọng rất mềm, là kiểu mềm cố gắng thu bớt, khiến anh liên tưởng đến mùa hạ khô hanh râm ran tiếng ve ở Đông Bắc, “Trả tiền.”

Anh trả tiền, nàng rời đi.

Cho đến khi dáng hình khuất bóng, Hàn Thính Trúc cúi đầu, nhìn bao thuốc lá màu trắng sữa trong tay.

CHIENMEN, Đại Tiền Môn.

Nàng không biết rằng, loại thuốc lá nàng tiện tay nhặt, anh đã hút suốt mười năm sau.

“Âm La, họ rất hiếm. Đường Tam từng đi học mấy năm, tôi bảo cậu ấy đến thư cục tra giúp tôi, trở lại nói một câu rất là nho nhã, ‘Sĩ hoạn chấp chưởng Kim Ngô, cưới vợ lấy Âm Lệ Hoa’. Tôi hỏi thẳng, Âm Lệ Hoa là ai, cậu ta đáp là nữ nhân của một hoàng đế triều Hán, là hoàng hậu. Bá cổ Đường Tam, tôi ngu xuẩn nói, mình không muốn làm hoàng thượng, quá nhiều nữ nhân.”

“Tôi bắt đầu tìm em giặt quần áo. Nếu kiếm được nhiều thì cho em thật nhiều tiền, em chưa từng nói gì, chỉ cười nhận lấy. Nếu kiếm ít thì không tìm em, quần áo chất đống. Dưới ngầm, Hàn lão tìm tôi mấy lần, bảo tôi giúp buôn lậu, tôi biết đó là cái gì, không do dự nhận lời. Kiếm được năm thỏi vàng, cầm trong một tay, ngăn em lại trên đường về nhà.”

Lúc đó, Hàn Thính Trúc cũng rất bá đạo, xồng xộc tiến lại cầm tay A Âm, hơi kinh ngạc vì xúc cảm lạnh băng, vẫn nói: “Em theo tôi, tôi không để em giặt quần áo nữa.”

Không cho kháng cự bỏ thỏi vàng vào chậu quần áo của nàng, chung quanh tối mịt, dưới đất còn có nội tạng tanh hôi người bán cá vứt lại.

Nàng đáp rất nhanh: “Được thôi.”

Giọng quá nũng nịu, anh cũng biết, nhu mì trong câu đầu tiên nói với anh là giả vờ.

Cô gái giặt quần áo xinh đẹp của phố phường sầm uất ấy đi theo Tiểu Hàn Gia, mọi người đều biết. Trong căn phòng cũ nát ở bến tàu, lần đầu tiên của Hàn Thính Trúc là do nàng dẫn dắt, nữ trên nam dưới.

Chưa từng ăn thịt lợn cũng từng thấy lợn chạy. Anh biết, nàng không phải lần đầu tiên.

Anh không hỏi.

Chỉ biết mỗi lần làm xong, nằm trên đùi nàng, hai người đều trần truồng, nàng muôn vàn quyến luyến ve vuốt gương mặt anh, anh châm một điếu thuốc Đại Tiền Môn, tâm rất an.

Ban ngày có kẻ đố kị anh đắc thế, nói ngay trước mặt, đ*t một đứa non mệt thế nào, thoải mái thế nào, còn chọc chọc anh, “Tiểu Hàn Gia, cậu nói sao?”

“Không biết.”

Đường Tam nói với anh, sau lưng có kẻ bảo, xường xám A Âm mặc tuy chất liệu không bắt mắt nhưng ở Thượng Hải lại chỉ có hiệu may Tần Kí bán, một xếp đắt dọa người. Gái giặt quần áo có thể kiếm được bao tiền, họ đều nói chỉ toàn tiền bẩn.

Anh vỗ vỗ vai Đường Tam, ôm cổ cậu: “Tam Tử, biết trong lòng tôi nghĩ gì không?”

“Gì?”

“Tần Kí đúng không, sau này tôi sẽ sắm cho em ấy cả một tủ, mỗi quý đổi một lần.”

Người phương Bắc, nhất là Đông Bắc, tích cách rất ngang tàng, Hàn Thính Trúc cũng vậy. Tia nắng chiều cuối cùng biết mất, đèn lớn trên bến tàu bật sáng toàn bộ, đã quên hôm ấy là ngày mấy tháng mấy, chỉ nhớ trên hoàng lịch viết, nghi sát sinh.

Hàn Thính Trúc chỉnh đốn bến tàu, mấy kẻ ngày thường nói năng quái gở đối nghịch với anh, cần chết thì chết, cần phế thì phế. Chỉ có một người, lúc đao của Hàn Thính Trúc chém xuống, trỏ vào một chồng hàng kêu: “Tiểu Hàn Gia, con đàn bà của mày kìa.”

Anh vừa phân tâm quay đầu, đối diện đao phong sấn tới, khó khăn lắm mới né được, đuôi mày bị cắt một vết thương.

Đường Tam đưa Hàn Thính Trúc băng vải xô về nhà, thấy anh giữ lại ăn, vội nói: “Chị nấu khó ăn thật mà, anh tha em đi.”

“Người khác không hiểu, tôi không hề gì. Có một cụm từ là khác nhau một trời một vực, A Âm với tôi như mây vậy, tôi là bùn. Lòng tôi hướng trời cao, nhưng dốc hết toàn lực cũng không với tới. Càng thân thiết càng phát hiện ra, A Âm rất hay thất thần. Thường ngày tôi không nói nhiều, trên giường cũng thích yên lặng, nhưng trong lòng có một cọng cỏ đuôi chó đang đong đưa, rất muốn hỏi: A Âm, em muốn thấy được ai khi nhìn xuyên qua mắt tôi? “

Thân mình nàng quá lạnh, Hàn Thính Trúc biết gió bến tàu buốt giá, phòng nát không ấm. Cực nhọc kiếm đủ tiền mua một căn nhà lớn, A Âm lại rời đi.

Nàng như chỉ nán lại thế giới anh mấy năm rồi biệt tăm tung tích. Bỏ anh lại một mình, nghẹn ứ vì một người phụ nữ không rõ thân thế.

Sự đời dễ biến, tâm ý không thay.

Ngày 20 tháng 11 năm Dân quốc 26, Thượng Hải thất thủ, cùng ngày, Hàn lão lên đường đi Hồng Kông. Sự nghiệp gia sản ở Thượng Hải phó thác cho Hàn Thính Trúc, hẹn rằng sau khi cập bến sẽ liên lạc. Trên tàu thủy, Hàn lão bị giết, sau lưng cũng có người đồn là Hàn Thính Trúc làm, anh không biện giải, yên lặng lập bài vị Hàn lão bên cạnh Quan Nhị Gia thờ trong từ đường dinh thự, thành tâm tế bái mỗi dịp lễ tết.

Làm người chỉ cầu không thẹn với lòng.

Anh kết bạn mới, đều là nhân vật có máu mặt ở Bến Thượng Hải. Nghe hí khúc không cần lén vào rạp hát nữa, luôn có phòng bao chính giữa giữ lại cho anh. Áo may ô không mặc nữa, bắt đầu mặc trường bào mã quái, tóc cũng để dài bôi dầu, sau này là Hàn tiên sinh, không phải Tiểu Hàn Gia cầm đao ở bến tàu.

Năm thứ nhất, A Âm chưa trở lại.

Năm thứ hai, A Âm vẫn chưa trở lại.

Năm thứ ba, A Âm trở lại.

Người ngoài nói nàng là hồ ly tinh, ban đầu sống cùng Hàn Thính Trúc ở bến tàu không trông thấy tiền đồ nên chạy. Nào ngờ Hàn lão coi trọng anh nhất, cũng yên tâm phó thác tài sản, gặp xui chết mất, toàn bộ đều trở thành của Hàn Thính Trúc rồi. Nhưng cũng phải thừa nhận, anh trấn được Hoằng Xã. Hiện giờ có nhà lớn ở, có tiền giấy đếm, đàn bà cũng gọi là tới đuổi là đi, A Âm tham tiền lại quay về.

Đường Tam thì vẫn kính trọng người chị này.

Khi Hàn Thính Trúc còn chưa phải Hàn tiên sinh, là người phụ nữ này ngày ngày giặt giũ nấu cơm cho anh trong căn phòng nát, ngày nghỉ còn thấy nàng cầm một con dao cạo cạo đầu cạo râu cho anh. Thậm chí Đường Tam còn cho rằng, sở dĩ A Âm rời đi là do Hàn Thính Trúc không tốt.

“Tôi nói với Đường Tam, tôi không làm gì sai, chị cậu cũng không sai. Chẳng qua tôi và em gặp nhau không đúng dịp. Tôi tới muộn, em đau thương đã lâu.”

“Em đứng trong dinh thự thật sự rất thích hợp, sống cuộc sống khổ cực cùng tôi nhiều năm vậy mới là tủi nhục. Tôi hỏi em đi đâu, em đáp: Bắc Bình. Tôi lại hỏi: Vì sao trở lại, em đáp: Nhớ anh. Ôm em vào lòng, tôi không so đo bất kì điều gì nữa.”

“Nửa năm trước khi Chi Nam và Hán Thanh rời khỏi Thượng Hải, cũng là nửa năm A Âm mới về. Đó là lần đầu tiên tôi cho rằng mình với em đang trở nên tốt đẹp. Khi ấy chúng tôi gặp nhau đã nhiều năm, mỗi một giây tôi đều hối hận.”

“Tôi làm chủ, gọi họ đi cùng, Chi Nam còn dẫn theo bạn gái nhỏ, nghe ‘Ngọc đường xuân’ ở Hoàng Kim. Hôm ấy Thượng Hải đổ trận tuyết đầu tiên, về đến nhà, tôi ghen em chủ động tặng một đầu bếp trong nhà cho Chi Nam. Thực ra trong lòng hiểu rất rõ, em thích cô bạn gái nhỏ của hắn, là người Bắc Bình. Đè em lên lan can trên tầng, em khóc nói với tôi: Hàn Thính Trúc, tuyết rơi rồi.”

Khi ấy có hơi mất khống chế, anh hơi nôn nóng, nôn nóng vì không lại gần được nàng.

Anh nghĩ: Phải, tuyết rơi rồi, tuyết thuần khiết nhất chốn nhân gian. Nhưng chân bước trên đất thì mỗi bước một bẩn.

Từ khi nào mà tôi và A Âm lại trở thành như vậy.

Tháng sau, Hàn Thính Trúc hẹn gặp Lương Cẩn Tranh. Đường Tam báo cho A Âm biết, A Âm bỏ ngoài tai.

Thanh minh, đám bạn tốt đi câu lạc bộ mới xây xong ở ngoại ô, A Âm và bạn gái nhỏ của Chu Chi Nam đua ngựa, anh tư hiên ngang, mắt mày phấn chấn, rất vui.

Cuối tháng, “Tỏa lân nang” công diễn ở đất Hỗ, là lần cuối cùng bạn bè ở Thượng Hải gặp nhau.

Anh dù sao cũng khác với nhóm công tử xuất thân thế gia. Kẻ bò ra từ xác chết dưới đáy xã hội, đau đớn do chiến tranh đem lại khắc sâu tận xương tủy, anh có lòng cứu quốc. A Âm từng khuyên, anh vẫn không chịu đi. Như thể khi xưa Hàn lão ủy thác anh ở lại, anh đã nhận lời thì sẽ thực hiện trọn đời.

“Lần thứ hai ăn cơm với Lương Cẩn Tranh là cô ta chủ động hẹn. Lần trước không được A Âm để tâm, tôi cũng chẳng tự làm mình mất hứng nữa. Cô ta van nài hết lời, cũng có lẽ đáy lòng tôi vẫn còn một sợi tự ti trong tình cảm đang quấy phá, hay là đi thôi.”

“Tiệm cà phê Khải Tư Lệnh, câu được câu không với cô ta vài lời, ra phòng bao xuống tầng thì nhìn thấy A Âm đang nắm tay với La Dược. Tôi nghĩ bụng, A Âm thực sự xấu xa.”

“Tôi hay cố ý bá đạo với em chỉ là bởi mỗi lần bất giác để lộ dịu dàng, em sẽ nhìn vào mắt tôi, lần nào cũng thử tìm bóng dáng một người khác trong đó. Thẳng thắn mà nói, tôi không muốn.”

Sau đó, A Âm uy hiếp sẽ trở về Bắc Bình, Hàn Thính Trúc hoàn toàn cắt đứt liên lạc với Lương Cẩn Tranh. La Dược tặng một con mèo mun, A Âm mang về nhà, không đặt tên, chăm rất siêng.

Cuối năm, hai người kí giấy hôn thú, đăng báo công bố tin mừng.

“Năm thứ nhất sau tân hôn trôi qua rất nhanh. A Âm và tôi vẫn bằng mặt không bằng lòng như cũ. Tôi không chạm được tới chân tâm của em, em cũng không nguyện giao lòng cho tôi. Hai chúng tôi cứ thế để lỡ, chung quy sẽ có một ngày phải hối hận.”

“Như con mèo không tên kia vậy, dường như không lúc nào em không thể hiện rằng ở Thượng Hải, mình chỉ là một khách qua đường. Tới rồi, rời đi, lại trở về, cũng sẽ lại đi. Mà tôi thì vẫn luôn tìm cách níu giữ người khách này. Có điều, mười ngón bắt nước, tay trống trơn.”

“Tổ chức biểu diễn tết Nguyên Tiêu là để dỗ A Âm vui vẻ. Tiểu thư nhà họ Tô đánh đổ đèn hoa, tôi lập tức biết bữa này xong rồi. Em sa vào nỗi đau thương ấy chẳng thoát ra được, tôi cũng không vào được, khoảng thời gian hơn nửa năm ấy, tôi và A Âm lại để lỡ.”

“Tôi cũng biết lần đầu tiên A Âm mài mực luyện chữ trong thư phòng. Người ngửi quen mùi máu tanh vô cùng nhạy cảm với tao nhân mặc khách. Trong cái tủ cách bàn xa nhất, mở ra, giấy Tuyên nghiên mực đều đầy đủ. Một tờ ngập kín chữ Quan, một tờ tràn đầy chữ Trừng, chữ nhận biết không tính là nhiều, trùng hợp nhận được cả hai chữ này. Ghép lại đọc lên, Quan Trừng, là ai?”

“Tính kĩ cả đời này, lần tôi làm tổn thương A Âm chỉ có bữa tận mắt thấy em ăn mắt cá đó. Vô thức nói câu “Buồn nôn”, nhưng đáy lòng tôi chưa từng sinh chán ghét với em. Chuyện vốn đầy bẩn tưởi, nhưng A Âm đã làm thì tôi cũng chấp nhận. Nhanh chóng thích ứng, nhưng chẳng ngờ lại chọc em khóc lớn. Là báo ứng, em trả lời “Hối hận”, A Âm ư, là người biết khiến tôi đau lòng nhất trên đời.”

“Sau khi rời khỏi phòng nát thì không còn được ăn mì em tự nấu nữa. Hồi tưởng khi xưa, cái tôi nhớ sâu nhất không ngoài cháo trắng rắc đậu xanh và mì trứng gà. Trước đây tôi từng làm cho A Âm, em không ăn một miếng. Món sau, món sau A Âm mềm lòng, lại làm cho tôi ăn trong dinh thự, tôi ăn hết sạch, tâm rất an. Khi đó nghĩ, nếu có một ngày được nghe lời giao tâm của A Âm, tôi sẽ nói với em, nên bỏ nhiều muối vào hơn, nếu không thật sự chẳng có vị gì hết. Đường Tam từng nếm một lần, kể từ đó về sau không bao giờ muốn ăn lại nữa.”

“Trong lòng tôi tự biết mình không phải người tình thâm nghĩa trọng. Trừ mấy người thân thiết ra, tôi thậm chí còn bạc tình bạc nghĩa. Tô Tiểu Mạn năn nỉ thét gào, Tô Tiểu Mạn chết, trong lòng tôi không một gợn sóng. Khi ấy chợt tỉnh ngộ, hóa ra trăm ngàn kiều thơm trên đời, có A Âm, tôi chẳng còn lòng thưởng.”

“Bắt lấy Vĩnh Trừng, thật sự là không dưng, nhưng cũng có thể coi là đã sớm có ý định. Đối với tình cảm, tôi quả thực mâu thuẫn, không có lấy một ngày nhẹ nhõm. Nhưng ngẫm lại thì cả đời tôi vốn cũng chưa thảnh thơi được chốc nào, nghĩ vậy thoải mái hơn nhiều.”

“Sau hôm A Âm khóc, tôi cảm giác được rằng cuộc sống đang trở nên tốt hơn. Chẳng ngờ, những ngày hạnh phúc nhất trong đời cũng chẳng vượt được mùa đông ấy – mùa đông cuối cùng. Mùa đông này, tôi không qua khỏi, hoặc là nói, tôi qua quá nhanh, bỏ rơi A Âm, quả thực đáng chết.”

“Em không muốn nghe anh nói yêu em, anh cũng chỉ có thể trộm nói khi em đã ngủ. Chỉ một lần ấy. A Âm, anh quá cứng rắn, không muốn nói nhi nữ tình trường. Nhưng đêm khuya ôm em vào lòng, trong căn phòng ánh trăng chẳng rọi, anh chẳng tìm được cớ gì để mượn, vì sao lại khiến tim anh mềm mại đến thế. Em luôn cho rằng anh từng yêu, từng có rất nhiều phụ nữ, không phải như vậy. Từ đầu tới cuối, trong lòng anh chỉ có mình em. Đáng tiếc rằng em không nghe được đến sự thật.”

“A Âm không biết quá nhiều chuyện, mèo mun dính anh, có lẽ cảm thấy anh là đồng loại, có lẽ là bởi anh thường vuốt nó. Thì ra yêu ai yêu cả đường đi là như thế, anh hiểu được thành ngữ này đều là bởi A Âm, cũng thấy hứng thú.”

“Anh thật sự chuộng ‘Tỏa lân nang’ hơn cả, không ai có thể kháng cự câu chuyện đoàn viên mỹ mãn, anh cũng không ngoại lệ. ‘Xuân khuê mộng’ quá buồn, cảm xúc này càng sâu lại càng không muốn nghe tiếp nữa. Đó chỉ là một mùa đông bình thường, điều duy nhất không bình thường là anh mặc áo trắng, lần đầu làm chàng thiếu niên của em, hơi căng thẳng, lại tiện tay chắn cho em một phát súng.”

“A Âm, trong lòng anh có ngàn lời vạn chữ, không cách nào thổ lộ từng cái với em. Muốn dồn sức lực cuối cùng vào việc cùng em xuống tầng lên xe, cũng thành vọng tưởng. Sau khi ngã xuống đất, lòng anh rất bình tĩnh, ung dung chịu chết. Anh từng sợ nhất là bỏ mạng, nhưng nếu là vì em thì không sợ hãi.”

Đoạn kết:

Đêm trước ngày rời khỏi Thượng Hải, A Âm thức trắng ngồi một mình trong thư phòng, không chợp mắt chốc nào. Hồi tưởng lại tình cảm mười năm với Hàn Thính Trúc, không khỏi mắt rớm lệ, tim như bị dao cắt. Nghĩ đến con dao cạo trong ngăn kéo dưới cùng, lau nước mắt khom người xuống lấy, lần này đã thấy rõ, bên dưới đặt một phong thư không viết tên họ.

Cẩn thận mở ra, chỉ có một trang. Đến lúc thấy chữ viết, hốc mắt thoắt chốc ầng ậng nước. Không kém lối chữ khải nàng luyện chút nào, chỉ khi xem ĩ mới nhận ra bút lực hơi thiếu, trở lại công quán ba năm, anh ít nhất đã luyện ba năm.

“Vợ anh, A Âm: mở thư tốt lành.

Hồi tưởng mười năm qua, anh và em bỏ lỡ lẫn nhau, quá khó nên lời.

Chẳng biết sẽ bỏ mình bao giờ, để lại thư cho em, mong hãy bảo trọng.

Anh đã cố hết sức tìm người tên Quan Trừng kia, chẳng biết làm sao lại không có thu hoạch gì.

Mong em rời Hỗ truy tìm, đừng vất vả vì anh, nhân sinh vui vẻ.

Anh quá nặng tình với em, thật sự giấy bút khó viết, không thêm lời nữa.

Chớ đọc.

Hàn Thính Trúc viết đầu năm Tân Tị”

Cả giá sách thơ Đường nhào rơi đầy đất, A Âm ném sách, hận mình. Kể từ đây nhân sinh với nàng là “Từ bấy chẳng thiết những đêm dịu, mặc trăng soi sáng góc lầu tây”(*), là “Trăng sao đêm nay dường có khác, vì ai đứng hứng gió sương đêm” (**).

(*) Bài thơ “Tả Tình” của Lý Ích.

(**) Bài thơ “Khởi Hoài” của Hoàng Cảnh Nhân.

Tiệm cơm Khai Nguyên, Bắc Bình, Dược Xoa và Chướng Nguyệt đi nghe hí kịch trở về, vừa lên tầng thì ngửi thấy mùi đàn hương quen thuộc mà xa lạ. Hai người nhìn nhau, sắc mặt quả thực không tốt, chia tay chưa đầy một tháng, A Âm đã trở về. Trong phòng nàng thờ di vật của Trúc Hàn, còn từng bị Dược Xoa giễu cợt, làm người lâu rồi thật đúng là nhập vai, song mỗi lần trở lại, nàng đều thắp một nén hương.

Vào phòng, không thấy bóng người, cũng không thấy bóng quỷ. Sau lư hương lại thêm một hộp tro, như cho biết đã xảy ra chuyện gì.

“A Âm?”

“A Âm, cô về rồi?”

Trước
image
Chương 40
  • Chương 1
  • Chương 2
  • Chương 3
  • Chương 4
  • Chương 5
  • Chương 6
  • Chương 7
  • Chương 8
  • Chương 9
  • Chương 10
  • Chương 11
  • Chương 12
  • Chương 13
  • Chương 14
  • Chương 15
  • Chương 16
  • Chương 17
  • Chương 18
  • Chương 19
  • Chương 20
  • Chương 21
  • Chương 22
  • Chương 23
  • Chương 24
  • Chương 25
  • Chương 26
  • Chương 27
  • Chương 28
  • Chương 29
  • Chương 30
  • Chương 31
  • Chương 32
  • Chương 33
  • Chương 34
  • Chương 35
  • Chương 36
  • Chương 37
  • Chương 38
  • Chương 39
  • Chương 40
  • Chương 41
  • Chương 42
  • Chương 43
  • Chương 44
  • Chương 45
  • Chương 46
  • Chương 47
  • Chương 48
  • Chương 49
  • Chương 50
  • Chương 51
  • Chương 52
  • Chương 53
  • Chương 54
  • Chương 55
  • Chương 56
  • Chương 57
  • Chương 58
  • Chương 59
  • Chương 60
  • Chương 61
Tiếp

TRUYỆN ĐỀ CỬ

Loading...
error: Content is protected !!